Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

Nguyễn ngọc Già : LỜI NHẮN ANH VINH VÀ ANH LẬP...

Nói thêm cho rõ: – Trong lần rã băng ghi âm đầu tiền, Cu Vinh viết ra lời có câu hùa về thằng Vươn luôn, sau đó nghe lại thấy chưa đúng, lại nhờ một bạn đọc có thiết bị tốt nghe lại, tạm ghi ra là bắt đầu từ đó luôn, nhưng ngay cả mấy chữ này cũng không thật rõ lắm, vì chỗ này tiếng nghe rất khó nhưng tạm chấp nhận. Dùng bắt đầu từ đó luôn cũng có nghĩa là từ cái vụ việc Đoàn Văn Vươn, ý nghĩa phê phán của Bí thư Thành về cái gọi là ‘một chiều’ không thay đổi. Chỉ có một chữ thằng Vươn có thể không đúng như lời nhân vật nói. Nếu thực sự Bí thư Thành không dùng từ ‘thằng Vươn’ thì Cu Vinh xin lỗi Bí thư Thành”.(1)

I. Lời nhắn đến anh Vinh và anh Lập:

Sự đời không dễ vậy đâu, thưa nhà văn Nguyễn Quang Vinh và nhà văn Nguyễn Quang Lập. Xin thứ lỗi, vì tôi biết cả hai anh đều sinh sống và có ít thành đạt, tiếng tăm như ngày nay là từ chính thể này. Có thể cuộc đời các anh lăn lộn, từng trải và nhiều nổi trôi, tuy nhiên tư tưởng các anh vẫn còn tin tưởng nhiều vào sự tốt đẹp và có thể thay đổi được của chế độ Cộng sản. Xin hãy nhớ về câu chuyện của nhà báo Nguyễn Văn Hải và Nguyễn Việt Chiến vụ PMU18 (chưa dám nói về nhà báo Hoàng Khương, Hương Trà).

Có thể anh Vinh và anh Lập là những nghệ sĩ, nhà văn với tâm hồn khoáng đạt, hào sảng, có sai thì nhận và xin lỗi. Nói thế cuộc đời này đã không có những oan trái ngút trời, thưa hai anh! Mong hai anh hãy suy nghĩ kỹ và rút lại lời xin lỗi đối với Nguyễn Văn Thành, bởi nếu đã công nhận sai thì nó trở thành mối đe dọa truyền kiếp mà hai anh phải trả (có thể trong tương lai không xa lắm, nếu nguyên bộ sậu Nguyễn Văn Thành tiếp tục tại vị).

Khổng Tử nói: “tiểu nhân nan dưỡng”.

Ngoài ra, với tư cách người viết tự do, không ràng buộc gì, tôi cam đoan với hai anh:

- Chắc chắn có chữ HÙA trong đoạn băng hình (hai anh có thể vào Dân Luận và nghe đoạn ghi âm này của một độc giả đã lọc bỏ bớt nhiều tiếng ồn). Chỉ riêng chữ “HÙA” này thôi, cũng đủ để kết luận Nguyễn Văn Thành đã xúc phạm các vị “nguyên”, “cựu” và “đương kim” nổi tiếng. Nếu chưa tin lắm, mời hai anh gõ vào google hai chữ: “chó hùa” sẽ thấy có 51.800 kết quả (2), điều này chứng tỏ cụm từ này khá phổ biến làm cho nhiều người tìm hiểu. Không biết ngoài Bắc và quê các anh ra sao, trong Nam khi dùng chữ “chó hùa” nghĩa là bu vào, xúm vào một cách hung tợn, hỗn ẩu và côn đồ, bất kể đúng sai, miễn làm sao áp đảo tấn công đối phương để giành chiến thắng cho phe mình trước đã. Chỉ riêng từ “HÙA” cũng đủ kết luận Nguyễn Văn Thành đã xúc phạm nghiêm trọng nhân dân Việt Nam mà không cần viện dẫn chữ “THẰNG” ở đây. Chính ra chữ “HÙA” quan trọng hơn nhiều so với chữ “thằng”.

- Không thể thay thế cụm từ “hùa vào thằng Vươn luôn” bằng cụm từ “bắt đầu từ đó luôn”, bởi cả hai cụm từ đều có 5 âm, nhưng cụm sau có hai âm “trắc”: chữ “bắt” và chữ “đó”, đặc biệt chữ “đó” không thể nuốt âm theo cách người miền Bắc (có đặc điểm nói nhanh). Các chữ nuốt âm được phải là âm “bằng” (có dấu “huyền” hoặc dấu “ngang”).

- Nếu hai anh nhận sai, có vẻ ngày hôm nay không có gì, nhưng khi mọi việc diễn ra theo ý muốn của “tập hợp” Nguyễn Văn Thành, thì hai anh là “cái cọc nhọn” đâm thẳng vào tim ác quỷ Dracula nó cần nhổ bỏ trước tiên, kéo theo những “cái gai” khác: các nhà báo tham gia thông tin vừa qua, các đảng viên tốt bụng giúp anh ghi âm, ghi hình lại, các cộng tác viên của hai anh và nhiều người khác. Lại xin lỗi hai anh để nhắc lại cụm từ của người cộng sản: “diệt từ trong TRỨNG NƯỚC” và “ĐÀO TẬN GỐC TRỐC TẬN RỄ” để cho tất cả những ai đang sống tại Việt Nam một lần nữa thấm thía hơn bản chất giới cầm quyền hiện nay là đa số thù dai và hẹp hòi, quyết không bỏ qua bất cứ việc gì, huống gì đây là một việc ảnh hưởng quá lớn đến cái gọi là “danh dự”, “uy tín” của họ.

- Trong trường hợp “tập hợp” Nguyễn Văn Thành cuốn gói, các “đệ tử”, “phe cánh” thuộc hàng “chân truyền” sẽ tiếp tục chĩa ống nhòm về phía hai anh để chộp bất cứ yếu tố có lợi cho chúng và sự rình mò này sẽ diễn ra đến hết cuộc đời. Các anh vẫn còn nhớ đồng nghiệp Lưu Quang Vũ, Dương Thu Hương, Đơn Dương v.v…? Nhắc điều này có vẻ phì cười trong thời đại a còng, tuy nhiên, rất tiếc đầu óc của bọn cặn bã vẫn là đầu óc bã đậu với cụm từ khỏi cãi “gu gồ chấm tiên lãng” để nhắc hai anh, bọn chúng tự phụ đến nỗi đần độn để không đánh giá đúng về sức mạnh kinh hoàng của internet, do đó chúng hầu như chỉ sử dụng những chiêu thức xưa cũ của mấy mươi năm về trước để trả thù. Không thể không nhắc lại chị Tạ Phong Tần ngồi trong nhà xí chúng còn tông cửa xông vào, anh Cù Huy Hà Vũ thì “xài hai bao cao su”, tên công an theo dõi anh Đỗ Nam Hải đã lấy ghế (cái mà người ta đặt mông để ngồi) che mặt (xin lỗi, có khác gì đội quần), cụ Hoàng Minh Chính còn bị ném phân vào nhà v.v…!

Mong anh Vinh và anh Lập bảo trọng.

II. Lật ngửa ván bài lên đi!

Sau khi gia đình anh Vươn nổ súng hoa cải vài hôm, ông Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nghiêm trị việc chống người thi hành công vụ, sau đó tiếp tục “chỉ đạo giải quyết nghiêm vụ việc (Đoàn Văn Vươn), các cơ quan chức năng nên nhanh chóng vào cuộc, càng để lâu càng không có lợi” (3). Tuy vậy, sau đó ông ta đã ra “kết luận” vụ việc sai trái thuộc chính quyền Tiên Lãng và đề nghị tòa địa phương xem xét giảm nhẹ tội trạng cho gia đình anh Vươn(!).

Các tuyên bố, động thái cứ xoay như đèn cù. Đó cho thấy, chính ông Dũng đang khá bấn loạn, hoang mang vì không nắm được tình hình thực sự diễn biến như thế nào. “Bản lãnh chính trị” – cái rất quan trọng của một đương kim Thủ Tướng hoàn toàn rơi rụng! Sự sáng suốt, bình tĩnh trước biến cố quá đột ngột cũng vụt mất nhanh chóng, cho thấy ông Dũng quá non kém về điều hành. Người điều hành, quản lý đất nước tối cao như vậy là hỏng, khi nghĩ về một biến cố tồi tệ nghiêm trọng hơn rất nhiều, do đó chẳng lấy làm lạ khi nghĩ về việc ông Dũng chối tội trong vụ Vinashin (4).

Như “bức tranh vân cẩu” (5), nếu chúng ta lùi ra xa một chút và nhìn lại toàn cảnh vụ án anh Vươn. Thuở đời, có ông đương kim Thủ tướng nào lại đi đề nghị cấp dưới, đi “xin” tòa (tư pháp độc lập) chiếu cố “giảm tội” cho “phạm nhân”?! Quả là đời biến đổi khôn lường như “tranh vân cẩu” vậy! Hơn thế, ý đồ ông Dũng ban đầu khá rõ theo “phong cách truyền thống” – (tạm gọi) “dẹp loạn”. Hễ có gì lùm xùm là cứ dập tắt cho bằng được, mọi sai trái đều trút lên đầu người dân, quan là đúng!!! Khi dư luận phẫn nộ bởi những đợt sóng cuộn trào cao ngút trời xanh, lúc này ông Dũng biết rõ: hết còn cơ hội “dập từ trong trứng” và tất nhiên ông ta nghe theo lời các… “quân sư” là dễ hiểu, bởi ông vừa đưa được con trai út vào guồng máy quyền lực, có vẻ còn khá hả hê, viên mãn!

Ai tư vấn cái điều oái oăm này thế, ông Dũng? Lũ “Vưu Hồn”, “Bí Trọng” nó đang “gài” ông một vố đấy, ông Thủ tướng “xuất sắc nhất châu Á” ạ! Lũ nó hạ cái uy tín của ông thấp đến nỗi không còn chỗ nào thấp hơn. Ông đang mắt kẹt Vinashin và chúng nó “gài” ông “xin” tòa Hải phòng cân nhắc tội anh Vươn, nghĩa là ông đã nợ chúng một điểm trong ván cờ domino mà ông đang ở thế “triệt buộc”, ông đành phải lật hết các quân cờ và tính điểm với chúng sòng phẳng!

Giật mình đi, ông Dũng! Vinashin đang giao về cho tòa Hải Phòng xử án (6). Ai giao? Trương Hòa Bình _ Chánh án TANDTC – kẻ đã từng ra vẻ cun cút và chiều lụy ông khi tuyến bố “Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, xét xử 2 cấp nên nếu thấy quyết định trái pháp luật thì có quyền hủy, trừ quyết định của Thủ tướng” (7).

Các ý kiến ông Dũng rõ là phụ thuộc vào các “quân sư”, mà một trong các “quân sư” đó chính là Phạm Quý Ngọ – Trung tướng- Thứ trưởng Bộ công an, mà nhà văn Nguyễn Quang Vinh đã có cuộc trao đổi trực tiếp (8). Trong cuộc trao đổi này, với tư cách là Trung tướng – Thứ trưởng Bộ công an, va luôn tự mãn với “chiến công” “hiển hách” trong việc dập tắt vụ nông dân Thái Bình nổi dậy của 15 năm về trước, mà nhà văn Nguyễn Quang Vinh bình: “…với vụ Tiên Lãng, như duyên phận, Trung tướng Phạm Quý Ngọ lại thay mặt Bộ Công an chỉ huy toàn cục những xử lý pháp luật về vụ việc trái pháp luật tại địa phương này”. Không phải là “duyên phận”, đầy ngụ ý hơn nên gọi “nghiệp chướng”, nếu ai đó tin vào “Luật nhân quả”. Tại sao chỉ qua một đêm, suy nghĩ của Tướng Ngọ trở nên lật bàn tay để đi từ dân sai trở thành giới cầm quyền địa phương sai? Một Thứ trưởng Bộ công an với nhiều năm lăn lộn, thủ đoạn có thừa lại có thể bộp chộp thế chăng? Đáng ngờ!

E rằng, không “dễ thương” và “dịu dàng” như “cô gái Thái Bình” thuở nào, bởi “bà Tiên Lãng” đã quá khác:

1) Năm 2012 không phải là 1997 – khác quá xa về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, đạo đức, dân trí kể cả ngoại giao đang rất cô độc và tệ hại. Tất nhiên phải nói cả sự thỏa mãn và lòng tham vô đáy, và bởi từ “vũ khí tối thượng” – INTERNET – thứ mà nhiều người nghĩ rằng nếu nó xuất hiện từ 1997, vụ “dập” Thái Bình không dễ dàng thế! Hải Phòng hôm nay không phải là nơi đèo heo hút gió như… Mường Nhé – nơi còn khá hoang sơ, nói gì đến “web”!

2) Việt Nam chưa cần đi “năn nỉ” trong những chuyên công du quốc tế rằng: “hãy công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường” như mới đây Vũ Văn Ninh – Phó thủ tướng lại tiếp tục “năn nỉ” Mỹ việc này (9).

Khó lắm, khó lắm, không có dễ đâu! Mọi việc đâu dễ ém nhẹm êm xuôi như ngày xưa cho giới cầm quyền ăn ngon và ngủ yên trên chiếc gối êm – “Chủ nghĩa Mác- Lê” & tư tưởng HCM.

Đừng bám vào quá khứ “thành công” trong đàn áp nông dân của ngày xưa để mong đợi chủ quan một thành công ngày nay tương tự y vậy, Tướng Ngọ! Và cũng bởi: LOẠN HẾT RỒI! Một cuộc nội chiến mang dáng dấp “Trịnh – Nguyễn phân tranh” và còn hơn thế nữa, đang dần hiển hiện như nhiều nhận định vừa qua?

 

*** 

Có thể lắm, bởi trong lúc “khói lửa can qua” tại Tiên Lãng, nơi cách Đà Nẵng cả ngàn cây số, nơi các đồng chí đang “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” để…bóp (cho bằng) nát, thì một “đồng chí” khác bỗng nhảy phắt từ trên ghế xuống, triệu tập mấy ngàn đảng viên, công chức để giáo huấn về “phận công bộc”, vâng! “đồng chí” Nguyễn Bá Thanh, đích y! Việc nhảy xổ ra lúc này để nói những lời đường mật, bỗng làm cho Nguyễn Bá Thanh như vị “cứu tinh đời em” trước quần hùng như rắn mất đầu, hoang mang cao độ bằng mấy vần thơ như xỉa xói vào cả Bộ chính trị ĐCSVN rằng:

Sinh ra vốn dĩ là dân
Phấn đấu dần dần cũng được thành quan
Hết quan rồi lại hoàn dân
Hoàn dân rồi lại dần dần vào quan.

Chắc chắn “vào quan” ở đây là vào quan tài!.

Nguyễn Bá Thanh quả tỏ ra nhạy bén và chớp cơ hội nhanh như cắt trong khi các đồng chí của ông ta đang phơi trần trụi bản chất tham tàn cùng một trình độ dốt nát. Hay! Hãy nghe Blogger Trương Duy Nhất “chê” Nguyễn Bá Thanh như sau (10):

Ông Thanh giống ông Sự ở cả cái khí chất, cách ăn nói lẫn sự… độc tài!

Để rồi bình tiếp:

Sự độc tài nhiều khi là đức tính cần có của quan chức đứng đầu. Nói như tiến sĩ Phạm Ngọc Cương “quyền lực chỉ thông suốt trong hai trường hợp: độc tài bao trùm hoặc dân chủ bài bản”. Một khi không, hoặc chưa có được cái “dân chủ bài bản” thì độc tài là điều kiện cần. Dân chủ nửa mùa trong trường hợp này là kìm hãm phát triển

Một lời bình rất khôn và rất ngoan, vừa là ý của Trương Duy Nhất “Sự độc tài nhiều khi là đức tính cần có của quan chức đứng đầu” vừa “góp gạo thổi cơm chung” với người bạn – ông Phạm Ngọc Cương để kết luận: “độc tài là điều kiện cần” bởi Việt Nam chỉ có “dân chủ nửa mùa”. Vậy điều kiện đủ là chi? Phải chăng đó chính là: thâu tóm, cát cứ rồi đi đến ly khai từ một vùng trọng điểm của miền Trung đang ngày càng hiện rõ? (*)

Bây giờ, có thể nói những ai lo lắng cho Trương Duy Nhất sau lời đe dọa từ Tom Cat đã có thể yên lòng, chẳng kẻ nào dám động đến cọng lông chân của anh Trương, một khi “vách đá” sừng sững Nguyễn Bá Thanh (cùng bộ sậu) còn đó, trừ phi một trận tsunami xuất hiện giật sập và cuốn trôi nó.

Cuộc thanh trừng hay cuộc nội chiến, nếu xảy ra chắc chắn nó không xuất phát từ Hà Nội hay Saigon mà có thể phần lớn từ Hải Phòng và Đà Nẵng để rồi lan tỏa. Do vậy, Trương Duy Nhất được khuyến khích hãy phát huy hơn nữa “nhằm thẳng quân mình mà đánh” để ngoài tả phù (công an& tòa án& viện kiểm sát địa phương), và hữu bật (quân đội & các cơ quan công quyền địa phương) còn có “chân giữa” (trọng tâm à nha!) của người phát ngôn “hãy đọc blog đừng đọc báo” nhằm giúp Nguyễn Bá Thanh mau chóng lên ngôi “Chúa” trong một ngày gần nhất. Chúc “tập hợp” Nguyễn Bá Thanh thành công!

III. Lời nhắn gởi đến đại gia đình anh Vươn cùng các nhà báo “lề phải”:

Chị Thương và chị Hiền thân mến! Muốn hay không, đại gia đình các chị đã trở nên nổi tiếng bất đắc dĩ. Nói không quá, biến cố gia đình chị đã trở thành cơ hội cho hàng triệu dân oan khắp nước suy nghĩ và hành động.

Có lẽ đại gia đình anh Vươn trở thành điểm tựa vững chãi cho dân oan trong việc đi đòi công lý, vì thế hai chị và cả các anh đang bị tạm giam chắc chắn không quên sự cưu mang nghĩa tình, sự lên tiếng ủng hộ từ tinh thần đến vật chất của người Việt trong và ngoài nước, đặc biệt giới báo chí. Vậy đề nghị hai chị hãy làm chút gì đó để nâng đỡ tinh thần cho bà con đang bị oan ức, bởi chuyện đại gia đình chị đã trở thành “chuyện không của riêng ai”, hai chị cần có trách nhiệm hơn trong động thái và lời nói của mình. Tất nhiên tôi không dám đòi hỏi những gì quá tầm tay từ hai chị, chỉ mong:

- Thay vì hai chị dùng những câu (đại loại): cám ơn đảng, nhà nước, chính phủ v.v… mong hai chị hãy tỏ rõ tư thế người ngay thẳng, tính chính danh và còn nguyên vẹn quyền công dân bằng những câu (ví dụ):

+ Gia đình chúng tôi đánh giá cao kết luận của Thủ tướng.

+ Gia đình chúng tôi tạm ghi nhận việc hối lỗi của chính quyền địa phương và chờ những hành động phù hợp lời nói từ phía chính quyền.

+ Gia đình chúng tôi tin rằng công lý vẫn tồn tại và pháp luật phải được thực thi tại Việt Nam.

v.v…

Những phát biểu này chứng minh cho phía cầm quyền hiểu cái sai của họ, cũng như hai chị giúp họ giật mình mà tẩy xóa những phát ngôn mang chất ban ơn mưa móc, bởi họ là CÔNG BỘC của nhân dân Việt Nam, những gì họ đang hưởng từ lương cho đến “lậu” đều là của người dân, họ phải thực hiện trách nhiệm và bổn phận của họ.

- Tuyệt đối không tỏ ra nôn nóng hay buồn bã, thất vọng, bởi hàng trăm ngàn dân oan khác đang nhìn vào hình ảnh đại gia đình hai chị, do vậy hai chị không thể làm họ thất vọng.

Rất tiếc khi tôi đang viết bài này, biết thông tin hai chị đã có đơn xin khoan hồng (11) gửi tới chủ tịch nước, tôi cho đó là bước đi sai lầm. Bởi chỉ kẻ có tội mới xin khoan hồng, trong khi vụ việc đại gia đình hai chị vẫn chưa ngã ngũ. Hai chị đã tự đá vào lưới nhà!(**) Quá tiếc!

Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ “tình đồng chí” “đoàn kết thắm thiết” giữa anh Tư và anh Ba lại “hay”!

Sau cùng, cánh nhà báo “lề phải” thân mến, tôi đánh giá cao chuyên môn và đạo đức khi các quý vị tác nghiệp về vụ án Đoàn văn Vươn, các phóng sự, bản tin của quý vị đã làm sôi động bầu không khí “tự do báo chí lề phải” và tôi chung vui với quý vị khi một công ty phát hành sách báo cho biết, những ngày qua lượng báo phát hành ra tăng vọt gần gấp đôi trong tình hình kinh tế èo uột. Quý vị cũng thấy, cuối cùng chính độc giả, chính người dân nuôi quý vị thôi, chả có đảng điếc gì cả! Tuy vậy, mong quý vị hãy chừng mực và cẩn trọng hơn, đừng giật những cái title (ví dụ) “Vỡ òa niềm vui”, “thấu tình đạt lý”, bởi có thể quý vị có thể “vỡ mật”, khi “bức tranh vân cẩu” thay hình đổi dạng ngoạn mục.

Nguyễn Ngọc Già

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Video Got Talent : XEM NHỮNG TIẾT MỤC ĐỈNH NHẤT VÀ TỆ NHẤT

||||||||***||

Chuối cả nải|
|
|
Con dở hơi

|
|
Thằng này chập mạch||

||

Thằng này ăn khoai nướng|
||
|
|

Con hát mẹ khen|

|

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Nóng : VỤ "CON HÁT MẸ KHEN" : VTV3 SỶ NHỤC GIA ĐÌNH BÀ NGỌ BẰNG CLIP HÀI

|
Clip mất dạy nhất trong lịch sử truyền hình

"Vở hài kịch phát sóng tối qua cho thấy tất cả mọi việc đã được họ lên kế hoạch một cách chi tiết và tỉ mỉ nhất cho màn scandal hạ nhục con bé và gia đình để gây shock nhất"...

Chương trình Thư giãn cuối tuần phát trên Kênh truyền hình quốc gia Việt Nam VTV3 tối ngày 25/2 với phần tiểu phẩm hài Copy và Bơm vá được cho là 'nói xoáy' hai mẹ con Quỳnh Anh trong cuộc thi Vietnam's Got Talent đã khiến nhiều khán giả người lớn xấu hổ và nổi giận.

Trong thư gửi Phunutoday, bố của bé Quỳnh Anh, ông Lê Anh Tuấn còn kết tội một công ty truyền thông đứng sau đạo diễn tất cả vụ việc, ông Lê Anh Tuấn không tin cả dư luận báo chí vì ông cho rằng báo đưa đơn kêu cứu của gia đình ông hôm trước thì hôm sau lại có bài sỉ nhục gia đình ông, tiền hậu bất nhất!

Để rộng đường dư luận và đảm bảo tính khách quan của thông tin, chúng tôi xin đăng nguyên văn bức thư của ông Lê Anh Tuấn như một lá đơn kêu cứu dư luận của một độc giả, một người trong cuộc chứ không phải như một sản phẩm báo chí.

Tiểu phẩm của Thư giãn cuối tuần ngày 25/2 được cho là
Tiểu phẩm của Thư giãn cuối tuần ngày 25/2 được cho là "ném đá", nhạo báng gia đình Quỳnh Anh.

Thành phố Hồ chí Minh ngày 26 /2 /2012

Nhiều ngày qua gia đình chúng tôi không còn tâm trí nào để xem tivi nữa và tối hôm qua (thứ 7) cũng vậy. Tuy nhiên chúng tôi được bạn bè thông báo về một vở hài kịch trong mục “Copy và bơm vá” được VTV3 cho phát sóng trong chương trình Thư giãn cuối tuần lúc khoảng 21 giờ ngày 25/2/2012.

Đêm khuya gia đình tôi lên mạng xem lại vở kịch này thì chúng tôi lại một lần nữa bị sốc rất nặng. Quả thật họ đã xây dựng vở hài kịch để tiếp tục nhạo báng và hạ nhục con gái tôi và gia đình.

Hóa ra Ban tổ chức (BTC) Vietnam’s Got Talent, mà chúng tôi được biết là do một Công ty trách nhiệm hữu hạn đã đạo diễn và dàn dựng mọi thứ quá tinh vi và chuyên nghiệp.

Họ xây dựng nên hình ảnh con gái tôi bất tài và gia đình tôi vô cùng lố bịch. Họ không những lừa được khán giả và các phương tiện thông tin đại chúng mà họ còn qua mặt được ngay cả VTV3 là Đài truyền hình Quốc gia để được phát sóng vở hài kịch lố bịch trên, nhằm tiếp tục kích động khán giả và dư luận ném đá vào vợ và con tôi.

Phải chăng đây là lời đáp lại của họ trước lời kêu cứu trong tuyệt vọng của cô con gái bé nhỏ của tôi gửi tới Ủy ban Giáo dục, Văn hóa Thanh Thiếu niên Nhi đồng của Quốc Hội?

Vậy chúng tôi xin hỏi Công ty truyền thông đứng đằng sau vụ này là ai mà họ có thể làm được những điều như thế này? Từ vở hài kịch này đã thấy rõ công ty này - nhà tổ chức và là nhà sản xuất chương trình Vietnam’s Got Talent - mới là kẻ hãm hại bé Quỳnh Anh và gia đình tôi. Dư luận và cả báo chí, truyền hình, có lẽ tất cả cũng đều bị mắc lừa họ.

Vở hài kịch phát sóng tối qua cho thấy tất cả mọi việc đã được họ lên kế hoạch một cách chi tiết và tỉ mỉ nhất cho màn scandal hạ nhục con bé và gia đình để gây shock nhất, chứ không phải như họ nói và đổ lỗi cho dư luận.

Nếu họ chỉ chế giễu một gia đình tôi thôi thì cũng đã đau nhiều rồi. Đằng này họ còn chế giễu cả ông Trần Hiếu là bậc thầy trong làng thanh nhạc Việt Nam, cũng là người được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ Sĩ Nhân Dân.

Họ mang cả tiếng Việt ra để nhạo báng (“Lòng mẹ” - “Lòng cha”, “Tình mẹ” - “Tình trai”, “Tiếng mẹ đẻ” - “Tiếng cha đẻ”, “Tiếng Việt” - “Tiếng Việt Trì” v.v…). Điều này cũng đã được thấy rõ trên truyền hình.

Họ cũng khơi mào dư luận bằng cách tung clip Quỳnh Anh đã bị chỉnh sửa âm thanh, cắt ghép hình ảnh và lời nói để gây phản cảm khiến cho đám đông giới trẻ Việt Nam bị lôi kéo vào ném đá mẹ con Quỳnh Anh bằng những lời lẽ tồi tệ nhất mà một người Việt Nam có văn hóa không bao giờ dùng đến.

Rất cảm ơn tất cả mọi người gần xa, những tấm lòng đồng cảm đã chia sẻ với gia đình chúng tôi trong cơn hoạn nạn này. Tôi có một niềm tin rằng người tốt ở trên đời này vẫn nhiều hơn kẻ xấu gấp rất rất nhiều lần.

Tôi cũng tin công lý sẽ được làm sáng tỏ để trả lại tuổi thơ và niềm đam mê ca hát cho bé Quỳnh Anh, cũng như giữ gìn được một hình ảnh đẹp đẽ về đất nước và con người Việt Nam.
 

Bà Nguyễn Thị Ngọ: Một cách ứng xử tồi tệ với tâm hồn của con bé

Chia sẻ với Phunutoday, bà Nguyễn Thị Ngọ cho biết: "Hai tuần nay, mẹ con tôi cộng vào sụt cả chục kí lô, mặt cắt không còn giọt máu, cháu không đi học được mà tôi cũng không đi làm được. Sự việc khủng khiếp quá, không thể tưởng tượng được nó lại giáng xuống gia đình nhà mình như vậy.

Bà Ngọ và cô bé Quỳnh Anh
Bà Ngọ và cô bé Quỳnh Anh

Thư kêu cứu của cháu đã tới được UB Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng.

Tôi nghĩ đây là một việc chắc  chưa xảy ra ở Việt Nam bao giờ - một cách ứng xử tồi tệ với tâm hồn của con bé mà không thể nào tưởng tượng được.

Có lẽ, các cụ cũng phải quan tâm để một thứ "tội phạm" mới như thế ở Việt Nam không thể vào một gia đình khác, không thể để xảy ra ở đứa trẻ khác nữa. Bởi điều này ảnh hưởng đến tâm lý của các con, ảnh hưởng đến cả cuộc đời các con.


Xem thêm Báo saigongiaiphong ca ngợi mẹ con bà |Ngọ như thế nào ? Tại đây

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

VỤ "MẸ KHEN CON HÁT HAY" : LẠI NÓNG !

|||****|


Ngày 22/2/2012 Quỳnh Anh đã chính thức viết lá đơn kêu cứu.Đổ lỗi cho nhà đài,thực hư đâu chưa biết nhưng rất có thể QA không biết thủ phạm chính là mẹ đẻ của mình chỉ vì bà mắc bệnh háo danh : bà Nguyễn thị Ngọ !

Bà Ngọ là chủ tịch HĐQT hệ thốngTrường Quốc Tế Châu Á Thái Bình Dương (APC- TP.HCM)
33C-D-E Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1, TP.HCM
ĐT: (08) 5 4042 888 – Website: www.apc.edu.vn 
Có 4 cơ sở.

Con gái bà là học sinh  lớp 10a1 của hệ thống này.


Tám bài báo SGGP đã giúp bà Ngọ ca ngợi con gái bà như thế nào ?

Đã có trên dưới 8 bài báo của báo SGGP thăng hoa cho cháu QA lên trời nào là học giỏi ,hát hay...Trong năm 2011 khi chính bà là chủ tịch HDQT !

Học sinh Lê Nguyễn Quỳnh Anh với ca khúc “Tình mẹ”

Em Lê Nguyễn Quỳnh Anh (học sinh lớp 9A1) - “Thần tượng APC” năm 2010-2011 nhập vai người con chiến sĩ đặt bó hoa xuống mộ cha và ca bài hát “Tình mẹ” từ giọng ca ngọt ngào của em. Cả khán phòng không ngừng vỗ tay tán thưởng. xem tại đây

Thư gửi người thầy kính mến

“Trong cuộc đời, quãng thời gian đáng nhớ nhất đối với mỗi con người vẫn là thời học trò hồn nhiên, tinh nghịch và trong sáng với biết bao kỷ niệm bên bạn bè và thầy cô. Có những kỷ niệm chất chứa bao tiếng cười, có khi bị la mắng, bị phạt giữa nắng ngoài sân trường, có khi là những giọt nước mắt bịn rịn  trước khi xa nhau. Có những phút lầm lỡ, những phút giây tuyệt vọng, Thầy cô chính là những người cha, người mẹ, người anh, người chị nâng đỡ, dạy bảo chúng ta ở ngôi nhà thứ hai-ngôi trường thân yêu. Và Thầy Nhân, Thầy chủ nhiệm cũ hai năm liền của chúng tôi là người như thế.xem tại đây|

Hòa cùng không khí tưng bừng của cả nước bước vào năm học mới 2011-2012, ngày 30-8 vừa qua, tại Nhà hát TPHCM, hệ thống Trường Quốc tế Châu Á - Thái Bình Dương (APC) đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 5 năm thành lập, đồng thời khai giảng năm học mới.

Ông Trần Hường, Phó Vụ trưởng - Phó Giám đốc Cơ quan đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo phía Nam và lãnh đạo APC trao kỷ niệm chương cho học sinh tiêu biểu Lê Nguyễn Quỳnh Anh

Học sinh APC đạt thành tích học tập tốt...xem tại đây

Những thành tích xuất sắc của học sinh là niềm tự hào của Hệ thống Trường Quốc tế Châu Á - Thái Bình Dương. Kết quả đạt được ấy minh chứng cho chủ trương đúng đắn của nhà trường khi chọn mô hình giáo dục song ngữ, giảng dạy theo phương pháp tiên tiến trong khi vẫn giữ gìn được bản sắc dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Từ trái qua phải, từ trên xuống dưới: Nguyễn Mạnh Quốc Dũng, Nguyễn Đỗ Phương Thảo, Nguyễn Tường Minh Lộc, Phan Vũ Thiên Phúc, Lê Nguyễn Quỳnh Anh, Hoàng Lâm Đức,  Nguyễn Xuân Trâm và Lê Nguyễn Hoàng Nam xem tại đây

 

  • Danh sách khen thưởng

* Khối học sinh: Lớp xuất sắc nhất về học lực: Lớp 9A1 ( 39% học sinh giỏi, 50% học sinh khá); Lớp xuất sắc nhất về hoạt động phong trào: Lớp 8A2, 9A2, 6A1. Học sinh tiêu biểu của năm ( Student of the year): Lê Nguyễn Quỳnh Anh (Lớp 9A1) là học sinh xuất sắc các môn với số điểm 9.6, hạnh kiểm tốt và nhiệt tình tham gia các phong trào.xem tại đây

Trước đó, đại diện học sinh hệ thống Trường APC: Em Lê Nguyễn Quỳnh Anh - học sinh xuất sắc lớp 9A1; em Phạm Ngọc Trang - học sinh giỏi lớp 9; em Trần Thanh Quý - học sinh giỏi lớp 12A2 đã cung kính lấy lửa từ lư hương trước tượng Bác và tiến hành nghi thức rước đuốc cùng 500 học sinh APC được xe môtô của lực lượng cảnh sát dẫn đầu diễu hành qua các đường phố lớn của TP Phan Thiết về quảng trường Nguyễn Tất Thành, thắp sáng ngọn đuốc thiêng trong đêm sinh hoạt kỷ niệm 61 năm Ngày Truyền thống học sinh – sinh viên Việt Nam và Liên hoan “APC Xuân hội nhập - truyền thống vẻ vang hành trang tuổi trẻ”. xem tại đây|


Học sinh Trường Quốc tế APC đoạt huy chương vàng

Tuần qua, Hội thi “Giai điệu tuổi hồng” toàn quốc lần thứ 9-2011 đã kết thúc thành công tại TP.Hải Phòng. Dịp này, Đoàn Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM tham gia 5 tiết mục văn nghệ đều đoạt huy chương vàng, trong đó tiết mục “Ước mơ tuổi xanh” do em Lê Nguyễn Quỳnh Anh (học sinh Trường Quốc tế APC) lĩnh xướng đã được Ban tổ chức đánh giá rất xuất sắc.

Quỳnh Anh (APC) cùng đoàn SGD & ĐT- TPHCM với bài hát: Ước mơ tuổi xanh - Tiết mục đạt huy chương vàng tại hội diễn Giai điệu tuổi hồng toàn quốc lần 9 - 2011 xem tại đây

Lê Nguyễn Quỳnh Anh - Thần tượng âm nhạc APC Idol 2010 - 2011
Thứ hai, 14/02/2011, 10:27 (GMT+7)

Phát huy năng khiếu âm nhạc

Cuộc thi APC Idol là một trong những hoạt động văn hóa nghệ thuật và bồi dưỡng năng khiếu âm nhạc cho cán bộ – nhân viên, giáo viên và đặc biệt là trong học sinh hệ thống Trường Quốc tế Châu Á - Thái Bình Dương APC, được tổ chức định kỳ hàng năm kể từ năm học 2010-2011 với đối tượng tham gia là CBNV, thầy cô giáo và học sinh trung học.




Thí sinh Lê Nguyễn Quỳnh Anh nhận giải thưởng APC Idol 20

10 - 201 xem tại đây

LỜI KÊU CỨU KHẨN CẤP 
TPHCM, ngày 22-02-2012
     
     Kính gửi: Bác Ngô Thị Minh, 
     Phó chủ nhiệm Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc Hội Nước Việt Nam.
     
     Cháu tên là Lê Nguyễn Quỳnh Anh, học sinh lớp 10. 
   
  Đúng 10 ngày đêm, tức là 240 giờ kể từ tối ngày 12-2, VTV3 phát sóng chương trình kỳ 7, Vietnam’s Got Talent đưa cháu và gia đình cháu lên chiếu với sự dàn dựng lắp ghép tinh vi, có chủ định của Ban tổ chức, bóp méo sự thật để xây dựng hình ảnh cháu và mẹ cháu thật tồi tệ, kích động cả bao nhiêu triệu người trên thế giới để họ ném đá, lăng nhục liên tục hai mẹ con cháu. Họ đã khiến cho cả một hệ thống thông tin báo chí từ truyền hình, báo mạng, báo giấy, và thậm chí báo giáo dục Việt Nam (trên mạng) cùng hùa theo và khoét sâu hơn vết thương của cháu. Mấy chục triệu học sinh, sinh viên cả nước và ở nước ngoài ai cũng biết việc này. Chuyện khủng khiếp lớn đến thế, cháu chưa thấy xảy ra ở Việt Nam bao giờ cả.

     Cháu năm nay mới 15 tuổi, là học sinh lớp 10 và là một thí sinh dự thi cuộc thi Tìm kiếm tài năng Việt Nam (Vietnam’s Got Talent). Tiết mục dự thi của cháu khi đưa lên truyền hình đã bị cắt ghép đến từng câu nói và điều chỉnh âm thanh bài hát để biến một câu chuyện của cô bé 15 tuổi đi thi hát bình thường trở nên vô cùng lố bịch, kệch cỡm, kiêu căng, đáng ghét và cực kỳ bất tài theo một kịch bản soạn sẵn của Ban tổ chức để gây scandal để kiếm tiền quảng cáo thật nhiều (clip thi của cháu chiếu trên truyền hình có chèn quảng cáo Rejoice - nhà tài trợ chính của chương trình, chỉ trong vài ngày cả triệu người truy cập và nhân bản trên Internet, phát tán trên toàn cầu).  

      Cháu đã được dạy ở trường, sống là phải ngay thẳng, phải tôn trọng sự thật. Học sinh chúng cháu luôn được dạy kỹ như vậy thì tại sao người lớn, mang danh là người có học thức, làm một chương trình lớn mang tầm cỡ quốc gia như thế lại không làm đúng được theo những bài giáo dục công dân cơ bản ạ? 

     Từ ngày chương trình lên sóng, cháu không thể nào ăn nổi bát cơm hay ngủ ngon trọn một giấc. Đến trường, cho đến nay là tuần thứ hai sau khi xảy ra sự việc rồi mà cháu vẫn không thể tập trung vào việc học. Cháu cảm thấy oan ức lắm! Trong lòng cháu lúc nào cũng có một nỗi đau lớn, đau lắm bác ơi, cháu không thể chịu nổi khi nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ. Chỉ trong vài ngày thôi, mẹ già đi trông thấy, còn cháu đã sụt 3kg rồi, ngày nào cũng ăn cháo, ngày nào cũng có cảm giác muốn lả đi. Có lúc cháu tưởng chừng như không còn sức để gắng gượng nổi nữa. Hôm nay cháu không thể đi học và cháu quyết định viết thư này gửi bác. Bác cũng là người mẹ, cháu tin rằng bác hiểu được nỗi lòng của người mẹ và đứa con gái 15 tuổi này. Nếu cháu là con gái bác, chắc bác cũng đau đớn như mẹ cháu. Cháu tin rằng bác yêu trẻ em và luôn bảo vệ trẻ em. Cháu khẩn thiết xin bác hãy cứu cháu và gia đình. Xin bác giúp cháu vạch trần sự thật để ngăn chặn tội ác tày đình này. Họ đang chà đạp không thương tiếc nhân phẩm của cháu và mẹ cháu, bêu rếu trên khắp thế giới. Cháu thật sự rất sợ. Họ đã hướng dư luận với búa rìu khủng khiếp và độc ác đang ném vào cháu và mẹ cháu từng giờ từng phút. Nếu sự thật không được sáng tỏ, tội ác khủng khiếp vì đồng tiền không được ngăn chặn thì tương lai của cháu sẽ đi về đâu khi mà hình ảnh của cháu, mẹ cháu cùng gia đình đã bị họ khắc họa tồi tệ nhất và phát tán đi khắp thế giới kèm những lời độc địa nhất? Cháu sẽ lớn lên với nỗi ám ảnh này suốt cuộc đời. Rồi người đời sẽ nhìn cháu và mẹ cháu với ánh mắt khinh bỉ. Họ nói ra đường lấy rổ mà che, như thế cháu còn tương lai không bác? Mới 15 tuổi đầu đến với cuộc thi với sự nhiệt tình, trong sáng mà giờ đây, cháu lại phải chịu tổn thương, đau đớn đến thế này. Thật là kinh hoàng. Trong khi các bạn đồng trang lứa với cháu có thể vô tư cười đùa, đến trường học rồi rủ nhau đi chơi thì cháu lúc nào cũng lo sợ ánh mắt của mọi người đang liếc nhìn cháu, không dám đi ra ngoài vì sẽ nguy hiểm (đã có nhiều lời đe dọa cháu trên Internet), sợ lên Internet khi đâu đâu cũng là những “hòn đá tảng” đang ném vào cháu và mẹ. Cháu thật sự đau đớn và mất niềm tin. Họ đang bóp chết niềm đam mê ca hát từ khi sinh ra đến giờ của cháu, bóp chết ước mơ được đứng trên sân khấu lớn và thực sự được khán giả đón nhận trong cháu. Đối với cháu, âm nhạc là bạn thân tri kỷ, cũng là gia đình và là cả sự sống của cháu. Những lúc cháu mệt mỏi nhất thì chỉ cần hát lên là cháu sẽ có thêm nghị lực và dũng khí bước tiếp. Nhưng bây giờ cháu lại phải gánh hậu quả là bị phỉ nhổ, bị xa lánh và khinh bỉ ở mọi nơi chỉ đơn giản vì cháu đang cố gắng thực hiện ước mơ bấy lâu nay của mình. Đây không phải là mong muốn của mẹ như trên báo đưa tin, mà đây thật sự là ước mơ của cháu bác ạ. 

     Tối hôm qua cháu đọc trên báo Vietnamnet còn nói: “Mỗi đứa trẻ trong thời đại này, tốt hơn hết hãy tỉnh táo để tự cứu lấy mình”. Thế người lớn ở đâu mà lại để trẻ con phải tự cứu? Cháu phải làm gì bây giờ? Sao người lớn lại đối xử với trẻ con như vậy? Sao lại lạm dụng cháu, hạ nhục cháu và mẹ cùng gia đình trước toàn thế giới thế? Họ muốn cháu không còn con đường sống nữa sao? Tương lai cháu sẽ ra sao khi hình ảnh con người cháu và mẹ bị họ bôi nhọ khắp trên mạng, khắp các mặt báo, khắp toàn cầu đều thấy gương mặt đầy nước mắt của cháu cùng mẹ mà còn bị cho là lố bịch nữa.

    Bác ơi, 240 giờ qua chỉ có mẹ là cố vẫy vùng cứu cháu trước búa rìu dư luận trút lên đầu, khủng bố tinh thần và cuộc sống của cháu suốt ngày suốt đêm. Sao cháu không thấy tổ chức đoàn thể nào đứng ra bảo vệ đứa bé 15 tuổi này? Tại sao một em bé bị bố nuôi đánh sưng mắt sưng môi thì lập tức người bố đó bị bắt, còn cháu bị Ban tổ chức Vietnam’s Got Talent cố tình làm cho hàng bao nhiêu triệu người bạo lực tinh thần cháu trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng phát tán ra toàn cầu thì phải làm sao đây ạ? Cháu sẽ sống ở đâu trên trái đất tròn và nhỏ bé này để trốn họ?

     Cháu khẩn thiết xin bác hãy cứu cháu và cho điều tra ngay những sự việc gian dối mang danh “truyền hình thực tế” này. 

     Cháu xin gửi bác đĩa DVD những bài hát cháu yêu thích nhất trong đó có bài Tình mẹ (mà họ chửi là “ngoài lòng bò, lòng gà, lòng lợn thì còn có….lòng mẹ” đấy bác ạ) 

     Bác ơi, một đứa trẻ có thể chịu được bao nhiêu hòn đá và bao nhiêu phút bị ném đá? Còn cháu đã chịu cả 240 giờ rồi. 

     Bác ơi hãy cứu cháu cùng mẹ và gia đình cháu!

Cháu của bác
Lê Nguyễn Quỳnh Anh
Học sinh lớp 10
Trường APC, TP. HCM

|Thư này đăng trên web của bà Ngọ xem tại đây

|Ở nước ngoài người ta làm cái chương trình tìm kiếm nhân tai như thế nào mời các bác xem đoạn clip này|
|

| |******
canhsat4sao tổng hợp
Cảm ơn Tranhung09 đã cung cấp thông tin này

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

BỐN QUÂN BÀI CỦA CHÍNH QUYỀN HẢI PHÒNG ĐÃ NGỬA

Xét về mặt tâm lý,bản chất của người vi phạm luôn luôn tìm cách chối cãi bao biện cho những sai trái của mình,Đó là lý thuyết về tâm lý bắt buộc mà chúng ta không thể phủ nhận được.

Nếu cho toàn cảnh vụ Tiên lãng là một vụ án thì có nhiều cách giải quyết vụ án đó.Vậy thì chính quyền hải phòng đã chọn chiến thuật nào để giải quyết?

Qua xem xét thái độ của chính quyền Hải phòng ta thấy nổi lên Hải phòng đã sử dụng công tác vận động quần chúng mà thực tế là dùng cán bộ hưu trí để đánh.

1) Quân bài vận động các bác hưu trí cấp huyện

Sử dụng 300 cán bộ hưu trí của huyện Thiên lãng để thuyết trình.Bởi họ nhận định nếu chọc thủng tai được 300 vị này là có thể làm nên được chiến thắng.Tuy nhiên thủ đoạn này cũng bị thất bại.

2) Quân bài vận động các bác hưu trí cấp tỉnh

Tương tự,hôm sau t/p Hải phòng lại sử dụng chiến thuật này với Câu lạc bộ Bạch đằng là những gương mặt nghỉ hưu có máu mặt trên đất Hải phòng.Họ nhận định nếu chọc thủng được mấy trăm vị này tức là qua mặt được thủ tướng.Tuy nhiên do ông Thành có trình độ thuyết trình non kém nếu không nói là quá kém đã không vượt mặt được các vị tiền bối.Vấn đề là con dao hai lưỡi,một là thắng hai là thua,mà thua là thua rất đậm.Hậu quả khôn lường,bị các cụ giáng trả lại đòn sấm sét không những không thành mà còn đề nghị cách chức!.

Nếu như ai đó nới ông Thành nói ngược với ý kiến thủ tướng là đúng nhưng chưa đủ.Việc ông thành bảo vệ chính quyền Hải phòng là đúng theo nguyên lý "bản chất tội phạm".Tiếng nói của các bậc tiền bối là kẽ hở mà Hải phòng đang sử dụng là có bài bản nghiệp vụ,song,như đã nới ở trên do trình độ thuyết trình của ông Thành chưa đủ thuyết phục,đã chưa đủ thuyết phục mà lại còn xúc phạm những người ngồi bên dưới nghe.Hậu quả đã đến là điều tất yếu.

Ngược lại nếu ông Thành thắng vụ này thì chắc ông sẽ nổi như cồn trên đất Hải phòng,thậm chí còn được cả nước bái phục!.

3) Quân bài câu giờ khởi tố bị can vụ phá nhà ông Vươn

Đây cũng là vấn đề nằm trong danh mục thủ đoạn của chính quyền Hải phòng mà ta thấy rõ nét nhất đó là thủ đoạn câu giờ.Nếu như công an Hải phòng khởi tố bị can tức là mọi việc khó có phương thuốc cứu chữa.Vì chưa khởi tố bị can nên hiện tại Hải phòng đang tìm bằng mọi cách để lách ý kiến thủ tướng.Rất có thể chính quyền Hải phòng nhận định thủ tướng nói thế là để trấn an dư luận chứ Hải phòng chưa sai.Cái này mới chết người,nếu để thủ tướng phật ý thì các chú bộ sậu Hải phòng cho đến chính quyềnTiên lãng hãy coi chừng.

4) Quân bài phá lều tạm gia đình ông Vươn ?

Việc này theo tôi thì có thể chấp nhận được bởi lẽ :Tại điểm căn nhà ông Vươn bị dỡ bỏ từ tết đến giờ rất nhiều đoàn đến thăm,đỉnh cao nhất là có đoàn mấy chục người đến thăm và ăn cơm tại đó.Xét về mặt an ninh chính trị xã hội đây là điểm không tốt cho chính quyền địa phương.Rất có thể tại địa điểm này sẽ phát sinh ra những cuộc biểu tình và sẽ nảy ra với quy mô lớn.Nếu như vậy thì tính nghiêm trọng còn nặng nề hơn cho chính quyền Hải phòng.Cho nên sự dẹp bỏ cái lều đó là có lý của nó.

Tạm kết:

Như vậy tiến trình vụ Tiên lãng vẫn chưa có hồi kết.Sở dĩ chưa có hồi kết là vì "Chó cậy nhà,gà cậy chuồng" Hay "phép vua thua lệ làng" là những lý thuyết bất hủ từ xa xưa.Nếu toàn dân Hải phòng không đồng tình lên tiếng thì phần kết chưa chắc gì đã xử lý được các quan Hải phòng.Liệu báo chí và các blogger một mình có làm nên được bài toán này không? Liệu một mình thủ tướng có giám trảm các quan Hải phòng không? Xem ra cũng không chừng!

Tiếng nói của các ông to đã nghỉ hưu là nói chỉ để mà nói chứ hiệu lực cũng chưa nhằm nhè gì! Bởi sức khỏe quyền lực của Đảng cộng sản Việt nam đối với dân Việt đang còn rất tốt.Khó mà tiên đoán được điều gì sẽ xẩy ra.

Khẳng định nếu như bài học Thái bình hồi năm 1997 được rút kinh nghiệm rồi áp dụng vào Hải phòng thì chắc chắn cuộc chiến sẽ thành công.Chỉ có hàng vạn người đứng lên mới làm nên được chiến thắng.Gần như đó là bài học "chiến tranh toàn dân" của Lê Duẩn thời xưa.

Trên đây là quan điểm của tác giả Canhsat4sao

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

Tư liệu: BÁO CÁO CỦA G/S TƯƠNG LAI : SỰ KIỆN THÁI BÌNH NĂM 1997

Tác giả bản báo cáo này lúc đó là viện trưởng Viện xã hội học Việt Nam, thành viên Tổ Nghiên cứu Đổi mới của Thủ tướng Chính phủ (Tổ này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giải tán vào mùa hè năm 2006).

Bản báo cáo này đã được trích dẫn trên báo Diễn Đàn số 77 (tháng 9.1998) và tại Hội thảo hè năm 1999 họp tại Liège (Bỉ). Nay được tác giả công bố toàn văn trên mạngBauxite Việt Nam ngày 30.1.2012.

Thái Bình, mười lăm năm sau, ra sao ? Một nhà nghiên cứu xã hội hội vừa có dịp đi thăm xã An Ninh (huyện Quỳnh Phụ) cho biết : "Cả hai bên đều mỏi mệt vì cuộc bạo động tự phát : người cầm quyền thì thân tàn ma dại, có người bỏ làng đi tít vào Tây Nguyên lập nghiệp nhưng rồi cũng vất vưởng, có người thì nằm bẹp ở nhà trong đôi mắt nghi ngờ, lãnh đạm của chòm xóm, và nói chung là đều tàn tạ, nhường chỗ cho một lớp cướng hào mới lên nắm những vị trí của mình một cách khôn ngoan và ranh ma hơn  nhiều bậc đi trước. Phía bên kia, những người tham gia vào vụ bạo động thì cũng ê ẩm mình mẩy, có người đi tù 5 năm về (như bà Hợi, một phụ nữ ngoài 50, sống độc thân, thất học, đi tù vì một câu chửi mà mọi người đều nghe được, trở thành "nhân chứng vật chứng không thể chối cãi": "Đánh bỏ mẹ thằng Hàm đi" [Hàm là chủ tịch xã]. Khi tôi gặp lại bà, bà chỉ gật đầu chào, lầm lì không nói gì cả, chỉ thở dài ngao ngán !Phần lớn những người tham gia bạo động đêm 26, rạng sáng 27 tháng 6.1997 năm ấy thì im lặng, cam chịu và chôn sâu những phẫn uất cũng như những trải nghiệm dại dột vì đã làm bùng lên ngọn lửa để bị dập tắt ngay và chỉ còn lại đống tro tàn của bài học chua xót. Tuy nhiên, mâu thuẫn nội tại thì vẫn còn trầm tích lại đó, ngày càng vón cục lại chứ không thể tan đi được."



Sự kiện đêm 26 rạng ngày 27/6/1997 ở xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình như một hồi chuông báo động khiến chúng ta cần tỉnh táo nhìn nhận lại về hậu phương vững chãi của chúng ta để có những suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân trong sự nghiệp Ðổi mới và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp.

An Ninh là lá cờ đầu của huyện Quỳnh Phụ, và cũng có thể nói là lá cờ đầu của Thái Bình, một điển hình tiên tiến đã từng là quê hương của phong trào 5 tấn trước đây và hiện nay luôn luôn là lá cờ đầu của nhiều phong trào quần chúng chiếm lĩnh đỉnh cao thành tích về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, v.v. Gần đây Thái Bình càng nổi bật trong việc triển khai chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt với 4 công trình lớn : Ðiện, Ðường, Trường, Trạm [trạm y tế] cùng tiến hành đồng thời và thu được những thành tích lớn, tạo ra một diện mạo khang trang đẹp đẽ của một tỉnh lúa đồng bằng sông Hồng mà khách tham quan có thể ngồi trên ô tô đi khắp các xã trong tỉnh trên con đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ đã rải nhựa hoặc lát gạch phẳng lì !

Ấy thế rồi, đêm 26, rạng 27/6/97 hàng ngàn nông dân nổi dậy đập phá chậu cảnh tường hoa, bàn xa lông tiếp khách, bát đĩa dùng liên hoan và chiêu đãi, kính tủ bàn của trụ sở ủy ban xã, một tòa nhà uy nghi, lộng lẫy vừa xây tốn hơn 800 triệu đồng. Rồi sau đó, dân kéo đi đập phá 8 ngôi nhà của bí thư Ðảng ủy, Chủ tịch ủy ban, cán bộ địa chính và các bậc chức sắc khác nhau của xã (chỉ có một nhà của một người dân làm việc nấu nướng phục vụ hội nghị và khách của xã). Sau đêm hỗn loạn, giận dữ, đốt phá, sáng mai hoạt động của xã lại bình thường, người ta lại vẫn ra đồng họp chợ, đi lại chuyện trò vô tư !

Ba ngày sau sự kiện nói trên, theo yêu cầu của Tổ Nghiên cứu Ðổi mới của Thủ tướng Chính phủ thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đoàn cán bộ xã hội học chúng tôi về xã An Ninh, được Bí thư Ðảng ủy tiếp tại trụ sở mà kính vỡ, mảnh bát đĩa vỡ, chậu cảnh vỡ vẫn ngổn ngang, kể cả một tượng Bác Hồ bằng thạch cao trắng bị vỡ vẫn nằm ở góc bàn trong hội trường và theo lời của Bí thư Ðảng ủy xã thì "Hiện trường vẫn được giữ nguyên" như để nói lên tính phản loạn không thể dung tha được và cần phải trấn áp ngay của vụ bạo động 26-27/6/97.

Vấn đề gì đã diễn ra ở đây ? Nguyên nhân vì đâu ? Hậu quả ra sao ? Diễn biến sắp tới sẽ thế nào ? Cần có kiến nghị gì đây từ sự tiếp cận xã hội học ? Ðó là vấn đề đặt ra cho chúng ta, ba nhóm nghiên cứu gồm 10 người.

Một nhóm về ở ngay trong lòng điểm nóng : xã An Ninh gồm 4 người (1 Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ, Trưởng phòng Xã hội học nông thôn, 1 Bí thư chi bộ và là Trợ lý của Viện trưởng, 1 Phó Tiến sĩ Trưởng phòng Tổ chức và Đào tạo cán bộ, đảng viên, 1 nữ cán bộ nghiên cứu của Phòng Xã hội học nông thôn, đảng viên).

Một nhóm gồm ba cán bộ, do một Phó Giáo sư, Phó Tiến sĩ và là Phó Viện trưởng phụ trách khoa học dẫn đầu, một cán bộ nghiên cứu, Phó Phòng Xã hội học nông thôn, một cán bộ trẻ (cả hai đều là người quê ở Thái Bình, đang có họ hàng ở Thái Bình) đi theo tuyến rộng, dọc theo đường Hà Nam, Nam Ðịnh, qua Tiền Hải, vòng về thị xã, qua Ðông Hưng, Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Kiến Xương để tìm hiểu âm vang và độ nhiễm cảm của các sự kiện bạo động trong tỉnh.

Một nhóm xuất phát sau một tuần, đến huyện Thái Thụy nơi có điểm nóng Thái Thịnh để đo sự diễn biến sau sự kiện An Ninh và dư luận quần chúng về các giải pháp của chính quyền Tỉnh đã áp dụng. Nhóm này gồm một Phó Giáo sư, ba Phó Tiến sĩ đều là đảng viên, trong đó có một chuyên gia đã từng có công trình nghiên cứu sâu về nông thôn và về Thái Bình, đang làm luận án Tiến sĩ sẽ bảo vệ tại Pháp về đề tài nông thôn Việt Nam.

Ðồng thời với các nhóm đi khảo sát tại Thái Bình, Viện trưởng Viện Xã hội học đã giao nhiệm vụ cho một Phó Tiến sĩ Phó Trưởng Phòng Xã hội học dân số và Gia đình đang cùng với các cán bộ triển khai một đề tài nghiên cứu về hộ kinh tế gia đình và địa vị của người phụ nữ kết hợp khảo sát thêm về chủ đề như nhóm nghiên cứu sâu ở Thái Bình đang làm, hiện triển khai tại Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cũng như thế, sau khi kết thúc nghiên cứu ở Thái Bình một tuần, Viện trưởng Viện Xã hội học đã trao nhiệm vụ cho một đoàn nghiên cứu tại 10 xã trong 3 tỉnh (Hà Nam, Nam Ðịnh, Ninh Bình) về đề tài biến động dân số thu thập thêm tư liệu về chủ đề như đã nghiên cứu ở Thái Bình, người phụ trách này là một nghiên cứu sinh đang làm luận án Tiến sĩ ở Mỹ về dân số, là đảng viên, kết hợp với đồng chí Bí thư chi bộ đã từng nghiên cứu ở Quỳnh Phụ, Thái Bình cùng tiến hành, và cũng chỉ hai đảng viên này thu thập số liệu để báo cáo trực tiếp cho Viện trưởng. Công việc đang được triển khai và sẽ bổ sung vào báo cáo tổng kết này.

Bản báo cáo tổng kết này là dựa trên các tư liệu thu thập được qua phỏng vấn sâu, quan sát trực tiếp, các văn bản của tỉnh, huyện, xã (băng ghi âm ghi lời người được hỏi và tập hồ sơ ghi lại nội dung đã thu vào băng) cùng với 8 báo cáo của các cán bộ đi khảo sát và sơ kết của nhóm khảo sát. Vì đây chỉ là thông tin được thu thập qua phỏng vấn, chuyện trò và lời người kể có thể là người trong cuộc, người chứng kiến, người nghe kể lại không khỏi bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan, cho nên các số liệu (cho dù ghi thành con số) cũng chỉ có ý nghĩa phỏng chừng, tương đối khác với thống kê và báo cáo chính thức của người có trách nhiệm ở địa phương. Người viết báo cáo, trong trường hợp có dẫn ra các số liệu cũng là để gợi lên tình huống, không mang tính biểu đạt thật chính xác.


I. TỔNG QUAN VỀ CÁC SỰ KIỆN DẪN ĐẾN
SỰ BÙNG NỔ Ở THÁI BÌNH


Những ngày cuối cùng của tháng 6 năm 1997 đã cho thấy tính nghiêm trọng của một loạt những sự biến đã xảy ra ở một phần lớn các vùng nông thôn tỉnh Thái Bình. Ðã có tới 5 (Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền Hải, Ðông Hưng, Thái Thụy) trên 7 huyện và thị của tỉnh có phản ứng và khiếu kiện của nông dân về những vấn đề dân chủ và công bằng xã hội trong nông thôn. Nội dung chủ yếu của những khiếu kiện này tập trung xung quanh việc đòi thanh tra và công khai hóa việc phân chia ruộng và nhất là việc thu và chi những khoản đóng góp mà chính quyền địa phương (xã và huyện) thu của nông dân trong những năm qua để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong nông thôn, chủ yếu là các công trình : Ðiện - Ðường - Trường - Trạm.

Xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó đặc biệt là các công trình Ðiện - Ðường -Trường - Trạm là một chủ trương đúng đắn của tỉnh, rất hợp với nguyện vọng của dân. Người dân Thái Bình nói chung rất tự hào về hệ thống đường giao thông liên tỉnh, liên huyện và liên xã của họ.

Ðiều đáng nói ở đây là các công trình này đã được thực hiện trong 5 năm qua với một tốc độ và nhịp điệu quá nhanh. Do đó các khoản thu từ nhân dân cũng tăng nhanh chưa từng thấy. Năm 1991, tỉnh chủ trương chỉ đảm bảo cho 65 % các hộ trong tỉnh có điện dùng vào năm 1995. Nhưng cuối năm 1992 đã có 70 % số hộ (báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh, tháng 10 năm 1992) và năm 1996, 100 % số hộ trong tỉnh đã có điện dùng, toàn bộ đường tỉnh đã được nhựa hoặc xi măng hóa hết và 2/3 số trường học trong tỉnh đã là nhà cao tầng. Nguồn vốn để chi cho các công trình này chủ yếu lấy từ các nguồn trong tỉnh.

Trong ba năm 1988-1990, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật là 39,5 tỉ đồng, trong đó 9,5 tỉ là do Trung ương cấp, 30 tỉ là từ huy động ngân sách trong tỉnh. Nhưng phần vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân và tập thể cũng rất lớn. Ngoài ra, các quỹ giao thông xóm xã cũng ra sức phát triển. Có nơi còn chủ trương "cứng hóa kênh mương" để tăng nhanh các nguồn thu từ nhân dân (Thái Thụy). Phải chăng các khoản thu này là quá lớn so với khả năng đóng góp của người nông dân Thái Bình vốn chỉ có nguồn thu từ hạt thóc là chủ yếu ?

Cơ cấu thu nhập của tỉnh vào năm 1991 cho thấy 81 % là thu từ nông nghiệp. Các khoản thu này lên tới chừng trên dưới 35 khoản, thay vì 14 khoản theo quy định của huyện và 7 khoản theo quy định của tỉnh. Ðiều cần lưu ý là các khoản thu và chi này đã không được sử dụng một cách công khai và dân chủ. Các khoản thanh toán được công bố lại cho thấy có dấu hiệu của sự lạm dụng công quỹ, bởi nó vượt quá xa các định mức chi phí trên thị trường (giá của các công trình xây dựng thường cao gấp nhiều lần giá trị thực tế của chúng). Một chiếc cống thoát nước do chính quyền xã xây đã quyết toán tới 21 triệu đồng, nhưng khi dân đập đi xây lại thì chỉ mất 7,5 triệu đồng (xã Quỳnh Hồng). Trong khi đó, một số cán bộ chủ chốt ở một số địa phương lại có biểu hiện giàu lên nhanh quá mức bình thường trong năm năm qua, cùng với sự giàu lên trông thấy qua nhà cửa, các phương tiện sử dụng trong sinh hoạt là những nét xa hoa kệch cỡm về lối sống của một số người dễ dàng gây phản ứng trong quần chúng.

Nhân dân một số địa phương đã có đơn khiếu kiện lên xã, huyện, thậm chí cả tỉnh với các hình thức hợp pháp, từ đưa đơn có nhiều chữ ký cho một người đi gặp các cấp lãnh đạo có thẩm quyền (Tiền Hải, xã Ðông Trà), tới việc tập trung vài chục hay vài trăm người trước cổng Ủy ban tỉnh từ cuối năm 1996 (Quỳnh Hội : tháng 10/1996, 700 người lên tỉnh 2 đêm 1 ngày để trình đơn khiếu kiện, sau đó là đợt 2, với 1.500 người, đòi thanh tra lại đất 5 % vào tháng 4/1997). Người ta ước tính có chừng 120/260 xã trong tỉnh có biểu tình đưa đơn và từ chỗ đi lẻ tẻ, dần dần hình thành tổ chức quy mô hơn, người ta cho rằng có chừng 40 cuộc biểu tình lên tỉnh được tổ chức có quy củ và trật tự.

Những cuộc khiếu kiện này thường được tiếp đón một cách không nhiệt tình. Cách trả lời thường là sự im lặng kéo dài, hoặc lờ đi, hoặc cho thanh tra công khai nhưng kết luận không có gì. Những vấn đề này, thực ra, đã nảy sinh từ những năm 86-90 song cách giải thích chính thức của các cấp chính quyền từ xã, đến huyện, đến tỉnh về những sự kiện trên thường cho đó là "những biểu hiện tiêu cực nảy sinh do một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền tham nhũng, đè nén dân, làm mất uy tín của Ðảng và Nhà nước. Mặt khác cũng là do một số người lợi dụng việc mở rộng dân chủ trong quá trình đổi mới và những khó khăn đang gặp phải đã có hành động cực đoan quá khích, thậm chí tiếp tay cho địch, gây rối nội bộ, nói xấu Ðảng và Nhà nước". Những cách giải thích này không thuyết phục được quần chúng, nhất là vì nó chưa đưa ra được những giải pháp có hiệu quả thiết thực.
Từ tháng 5 năm 1997, những sự biến xảy ra dồn dập hơn, mãnh liệt hơn, và có chiều hướng sử dụng bạo lực từ cả hai phía, để răn đe hoặc để giải quyết những vấn đề đang tồn tại.

Sự xuất hiện của cảnh sát cơ động dường như đã đặt các cuộc biểu tình hợp thức vào tình thế bế tắc. Xu hướng bạo lực ngày càng có khả năng trở thành hiện thực. Sự kiềm chế và tính tổ chức ở những người biểu tình càng giảm sút thì các sự biến xã hội càng khó kiểm soát. Người ta chứng kiến một cuộc khủng hoảng chính trị xã hội thực sự trong nhiều xã và huyện của nông thôn Thái Bình.

Ngày 11 tháng 5 năm 1997, theo lời ước đoán thì có khoảng 2000 nông dân Quỳnh Phụ thuộc trên dưới 36 trong 38 xã của huyện đã tham gia vào cuộc biểu tình từ xã lên tỉnh bằng xe đạp và sau đó ở lại tỉnh 2 ngày 1 đêm, gây ảnh hưởng lớn trong toàn tỉnh. Cũng theo lời kể lại thì trong khi cuộc biểu tình này đang cố gắng thể hiện thái độ nghiêm túc và thận trọng trong việc bày tỏ nguyện vọng của đông đảo nhân dân trong huyện, thì ở trước trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện Quỳnh Phụ, cuộc tập trung của nhân dân nhiều xã trong huyện, cứ đông dần lên vì người các nơi ùn ùn kéo đến, có người ước lượng là có đến 1 vạn (?) người. Khi đám đông đã đến quy mô như vậy, chỉ cần một hành động quá khích là có thể dẫn đến những bùng nổ không sao kiềm chế được.

Theo lời người kể lại, thì do cách xử sự thiếu khôn ngoan và không thỏa đáng của một số người đại diện cho quyền lực nhà nước, dân phẫn nộ đã dùng bạo lực, phá trụ sở công an huyện, tấn công bằng gạch đá vào lực lượng an ninh có trang bị xe phun nước và chó béc-giê. Trước 500 công an, với 3 xe vòi rồng, dùi cui lá chắn, dân bảo nhau chuẩn bị nếu bị phun nước thì cả đàn ông, đàn bà sẽ cởi hết quần áo ra tắm. Công an ném 10 quả lựu đạn cay, dân phá hỏng một xe vòi rồng trong tiếng kêu "thế này thì dân chết mất", lại có tiếng "thà chết còn hơn sống khổ". Công an được lệnh không đánh lại dân. Nhưng khi trời tối, dân phát hiện có công an mặc thường phục trà trộn vào đám đông quần chúng. Thế là diễn ra cảnh bi hài, dân hô : "cứ xem thằng nào đi giày da, sờ vào bụng thằng nào to tức là không phải dân, nhằm vào nó mà nện". Công an bị thương 9, 10 người, dân bị thương vài chục. Công an bị thương được đưa vào bệnh viện, nhưng dân bị thương thì không vào vì sợ bị phát hiện nên khiêng về làng tất.

Dẫn đến cuộc bạo động này là chuyện dân bao vây Viện Kiểm sát huyện Quỳnh Phụ đòi thả hai người đánh kẻng tập hợp dân, đã bị bắt. Cuộc xô xát này, cho dù không để xảy ra tử vong song đã là bước ngoặt dẫn đến những sự biến sau này ngày càng bạo liệt hơn, bạo lực nhiều hơn và ngày càng mang tính trả thù hơn là đấu tranh hợp pháp.

Ðiều đáng lo ngại nữa là các huyện khác trong tỉnh đều coi cuộc đấu tranh này của người dân Quỳnh Phụ đã trở thành mô hình cho cách đặt vấn đề và phương thức đấu tranh của họ. Một mặt, những người khởi xướng cuộc khiếu kiện, rồi biểu tình bày tỏ sự nhiệt thành với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, giữ gìn sự trong sáng của Ðảng, bảo vệ sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân do Ðảng và nhà nước phát động. Mặt khác họ kêu gọi tinh thần cố kết cộng đồng làng xã vốn tiềm tàng trong đầu óc của mỗi người dân để buộc mọi người phải tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng theo cách nghĩ và cách làm của họ. Chẳng hạn như : ai không đi biểu tình, khiếu kiện thì tùy, nhưng nhà có người chết đừng có gọi dân khiêng, có cháy nhà đừng gọi người dập lửa. Phương thức đấu tranh ấy, chính là sự quay trở về với "lệ làng", mà buộc "phép vua" trước đây đã phải thua. Một khi mà kỷ cương, phép nước do những cán bộ xã, huyện và cả tỉnh đại diện đã không yên được lòng dân, thì tính tự phát của lệ làng, của đám đông có tổ chức hay không có tổ chức, dẫn đến sự manh động, là điều không thể tránh khỏi.

Bước chuyển từ "đối thoại" sang "đối đầu" đã thực sự chia rẽ một bộ phận lớn nhân dân với chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ trật tự là công an. Xu hướng manh động của những người nông dân mất bình tĩnh với sự tham gia của những trẻ em vị thành niên và những người kém kinh nghiệm xã hội đã được thổi bùng lên bởi các phần tử cực đoan quá khích và những thành phần bất hảo trong xã hội, điều ấy cũng không có gì lạ.

Ví dụ như, người ta kể lại rằng, ngày 8 tháng 6 năm 1997, chừng 300 thanh niên tuổi từ 13 đến 17 đã trói Chủ tịch và Bí thư xã Quỳnh Hoa, dong lên huyện dưới trời mưa mà không cho đội mũ. Họ phá cổng Ủy ban huyện làm Chủ tịch huyện phải bỏ chạy. Họ la hét và hạ nhục bằng những câu hỏi khiêu khích : vì sao mà "giàu lên nhanh thế", vì sao mà "chóng béo" đến thế.

Khoảng 10 ngày sau là sự kiện lên đến cao trào bằng việc đốt phá đêm 26 rạng 27/6/97 tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ. Rồi sau Quỳnh Phụ, một loạt các huyện khác đã nổ ra đấu tranh dưới nhiều hình thức kể cả biểu tình, khiếu kiện như ở Ðông Hưng (xã Ðông Cường) lẫn tấn công bằng bạo lực vào các cán bộ xã bị coi là phần tử tham nhũng. Người ta cho rằng tại ba xã Thái Thịnh, Thái Tân và Mĩ Lộc của huyện Thái Thụy là đỉnh cao của những cuộc tấn công bằng bạo lực. Phần đông các cán bộ xã bị tấn công đã phải trốn chạy. Những người còn lại đã phải dùng hình thức tự vệ bằng vũ khí và sự hỗ trợ của họ hàng, người cùng xóm gắn bó với họ.

Sau những bùng nổ đó, huyện, tỉnh (và có thể cả Trung ương) đã có những giải pháp, thêm vào đó, khung cảnh khủng bố và sự phá phách của những phần tử quá khích cũng đã làm cho nhiều người phải suy nghĩ lại về mục tiêu và phương thức của những cuộc đấu tranh đang diễn ra. Sự trấn áp những phần tử quá khích và những lời hối lỗi của họ trên màn ảnh truyền hình địa phương được đưa liên tục có thể cũng đã răn đe những hành vi bạo lực, manh động. Trong nhân dân cũng đã có người nhận ra hành động "luồn gió bẻ măng", có thể thấy rằng đám đông đã bị lợi dụng bởi những kẻ cực đoan, những kẻ muốn đục nước béo cò, trả thù cá nhân, thậm chí những hành vi lưu manh, cướp bóc. Tình hình tạm lắng xuống, song những nguyên nhân đẩy tới sự khủng hoảng và bùng nổ vừa qua vẫn còn nguyên, nếu chưa nói là đây đó, nơi này nơi khác được nung nấu thêm ! Màn kịch bạo lực dường như đã đi quá những giới hạn có thể chấp nhận cả từ phía chính quyền lẫn từ phía nông dân, hậu quả xã hội thật nặng nề.

Ðể tỉnh táo giải quyết hậu quả nặng nề này đòi hỏi một sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, mổ xẻ phân tích để dám cắt bỏ ung nhọt, thuốc thang bổ dưỡng cho cơ thể xã hội lành mạnh với một đường lối đúng, giải pháp đúng.

Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào đây để giải quyết những mâu thuẫn đã tích lũy nhiều năm ở nông thôn mà không phải sử dụng đến bạo lực ? Ðể trả lời câu hỏi này, việc đánh giá lại những sự biến vừa xảy ra một cách khách quan, tỉnh táo và thực sự cầu thị là tiền đồ quan trọng nhất.

Phải chăng là, không thể quy mọi nguyên nhân của các sự biến trên cho những kẻ quá khích, cực đoan hay những tên lưu manh chỉ thèm trả thù, cướp bóc và đập phá. Bởi lẽ nếu đúng là bọn này thì chúng không có uy tín, không có lẽ phải, không có khả năng tập hợp nông dân trong những cuộc biểu tình hợp pháp, nghiêm túc và đầy ý thức chính trị như vừa qua. Nếu đúng như câu chuyện được kể lại thì với một tập hợp trên dưới hai ngàn người, từ hơn 30 xã trong huyện, tập hợp ở một địa điểm và thời điểm bí mật đã được định trước chắc chắn là một hoạt động có tổ chức chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất.

Người ta kể lại rằng họ diễu hành hàng đôi bằng xe đạp lên tỉnh để tránh những trục trặc và ách tắc giao thông do họ gây ra hoặc do hoàn cảnh đưa lại. Cứ khoảng từ 30 đến 50 người lại có một người chữa xe đạp để tránh những trục trặc kỹ thuật. Ðến trụ sở Ủy ban tỉnh, họ ngồi thành hàng trên vỉa hè, tuyệt đối không bẻ cây, vứt rác, làm mất trật tự, trị an nơi họ có mặt. Họ kiên nhẫn chịu đựng sự căng thẳng, mệt mỏi trong 2 ngày 1 đêm chỉ để đưa được lá đơn khiếu nại tới tay ông Chủ tịch tỉnh. Ðã có biết bao giai thoại về cuộc biểu tình này chỉ để tỏ lòng khâm phục trình độ tổ chức của người lãnh đạo và ý thức tổ chức của những người tham gia. Ở những cuộc biểu tình này tuyệt nhiên không có xung đột, đụng độ nào cho dù có sự hiện diện của cảnh sát dã chiến (chỉ có xung đột ở huyện, xã).

Người ta cho rằng ở các cuộc biểu tình này có sự tập hợp đông đảo các tầng lớp nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh, từ người già, trẻ em, phụ nữ, tới những cựu chiến binh, đảng viên, cán bộ về hưu vốn đã từng lăn lộn, chiến đấu và hy sinh xương máu của mình qua hai cuộc kháng chiến. Nếu thế thì phải chăng, tính quần chúng rộng rãi của cuộc đấu tranh này cho phép nhìn nhận rằng đây là một phong trào xã hội, chứ không phải là những mâu thuẫn cục bộ, càng không là sự phản loạn chống lại chế độ.

Sự tham gia của đông đảo các đảng viên, các cựu chiến binh, những người về hưu, một lực lượng xã hội có trình độ nhận thức chính trị và xã hội tương đối cao trong nông thôn càng giải thích rõ tính chất và quy mô của cuộc đấu tranh của nông dân trong sự biến vừa qua và có lẽ chưa tắt hẳn.

Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực mà điển hình là cuộc đấu tranh chống tham nhũng và sự mất công bằng, mất dân chủ trong nông thôn, lực lượng này có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, họ không chỉ là nạn nhân trực tiếp của những tệ nạn cường hào, tham nhũng mà còn là những người có khả năng nhận biết. Chính vì thế, họ dễ trở thành những người khởi xướng và lãnh đạo cuộc đấu tranh mà chúng tôi đã nói ở trên.

Qua tìm hiểu các cán bộ xã, thấy rõ một điều là họ biết rất rõ những ai đứng đằng sau các cuộc tấn công vào bộ máy cán bộ lãnh đạo đương quyền. Nhóm chủ yếu phát động là những cán bộ trước cũng làm cán bộ nhưng nay không còn đương chức nữa. Thuộc về nhóm chủ yếu này ở một số nơi có cán bộ hưu trí, những người tương đối có trình độ cả về học vấn, tổ chức, còn sức lực nhưng thiếu việc làm. Cũng không nên quên rằng, Thái Bình, với đặc điểm đất chật, người đông, có một số lượng rất lớn người đi thoát ly làm cán bộ và nay về hưu. Ðược đảm bảo tương đối về đời sống, và cũng có hiểu biết, có nhiều thời gian những người thuộc nhóm này thường hay đề xuất ý kiến trong đời sống nông thôn.

Cũng chính vì vậy, cách đưa tin của Đài Truyền hình Thái Bình làm cho người ta nghĩ rằng bọn "côn đồ" xúi giục, nay bọn chúng đã bị bắt và ăn năn hối lỗi và nhận tội thì những người nhẹ dạ cả tin và manh động theo đuôi bọn quá khích đã nhận ra sai lầm. Cách đưa tin đó hình như không đạt được mục đích, mà ngược lại, trong khía cạnh nào đó lại như tích tụ thêm sự phẫn nộ.

Sau 10 năm tiến hành công cuộc Ðổi mới, rõ ràng là đời sống vật chất của mọi tầng lớp nông dân đã được nâng lên, nông thôn đã từng bước chuyển mình. Thái Bình lại càng nổi trội lên với bao lá cờ đầu, bao nhiêu vẻ khang trang, nề nếp. Vậy cái gì đã lôi kéo nông dân vào một cuộc đấu tranh dữ dội và rộng khắp như vậy ? Theo chúng tôi có lẽ không chỉ đơn thuần là lý do kinh tế. Những khiếu kiện kinh tế chỉ là điểm xuất phát khi một số cán bộ xã bị nghi ngờ có hành vi tham nhũng lại tự cho mình cái quyền tự phán xét, tự hợp thức hóa những quyết định đáng nghi ngờ của họ. Những người này tự cho họ là đại diện cho Ðảng bởi họ chính là bí thư hay các đảng ủy viên quan trọng của đảng bộ, tự cho là đại diện cho Chính quyền nhân dân, khi họ là chủ tịch hay các phó chủ tịch, trưởng thôn, tự xem là đại diện cho pháp luật khi họ là chủ tịch hay các thành viên của Hội đồng nhân dân xã. Những người này triệt để sử dụng các thiết chế hiện hành đang bị quan liêu hóa để hợp thức hóa những quyết định của họ thay vì trực tiếp tham khảo, lắng nghe ý kiến của nhân dân, dần dần một bộ phận những người có quyền lực này xa lạ và đối lập với dân.

Một khi mà sự việc đã diễn ra đến tình huống như vậy thì ở những nơi này, nội bộ Ðảng bị chia rẽ vì phe cánh và quyền lợi, mất dần sức sống, không còn uy tín. Chính quyền rơi vào nguy cơ mất mối liên hệ với các tổ chức quần chúng. Giữa dân với Ðảng và Chính quyền mất dần kênh liên lạc vốn có. Người ta phải sử dụng đến các hình thức khiếu kiện vượt cấp để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của họ. Khi mọi hình thức đó không đi đến kết quả thì xung đột nổ ra dưới mọi hình thức. Các phần tử cực đoan quá khích có cơ hội để đưa cuộc đấu tranh nhanh chóng đi đến bế tắc bằng các hình thức bạo lực và sự trả thù.

Hãy dừng lại ở sự kiện xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, đi vào diễn biến dẫn đến sự bùng nổ để qua đó, chứng minh cho những phân tích nói trên.

Sự việc bắt đầu bằng những đụng độ căng thẳng xung quanh yêu cầu của Thanh tra Nhân dân xóm 10, thôn Kiến Quan, đòi ông Khương, nguyên Xóm trưởng giao nộp hồ sơ sổ sách để kiểm tra mà chưa được đáp ứng. Ngày 24/6/97, trước sức ép của nhiều người, ông Lương Văn Quang, thành viên Tổ Thanh tra Nhân dân xóm đã đánh kẻng họp dân toàn xóm mà chưa có sự đồng ý của người có trách nhiệm. Ðiều này đã dẫn đến tranh chấp, đôi co trong việc lập biên bản và giữ ông Quang tại trụ sở Ủy ban vào ngày 26/6/97. Việc này do Chủ tịch Nguyễn Mạnh Hàm và Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm chủ trương.

Bị kích động bởi một lời thách đố của Chủ tịch xã khi nóng giận, dân xóm 10, và sau đó kèm theo là hàng nghìn người từ các thôn xóm khác trong và ngoài xã đã tràn đến bao vây trụ sở xã vào cuối ngày hôm đó. Những hành động quá khích vượt quá giới hạn của cuộc đấu lý đã dẫn đến bạo lực. Ðám đông hàng trăm người trong đó có những người bịt mặt với sự reo hò, cổ xúy của hàng nghìn người vây Ủy ban (cỡ chừng vài ba nghìn người, có người cho rằng có tới 6 nghìn người) đã tràn vào trụ sở Ủy ban Nhân dân xã, đập phá bàn ghế, tủ công tác, bàn hội nghị, phòng ốc, chậu hoa, cây cảnh, bát đĩa, v.v. và săn đuổi cán bộ xã đang có mặt tại trụ sở. (Khi thấy sự việc có chiều hướng nguy hiểm, hệ thống đèn chiếu sáng đã phải vụt tắt, tất cả các cán bộ xã đều đã phải trốn chạy tháo thân).

Thế rồi từ 7h tối ngày hôm đó cho tới rạng sáng ngày hôm sau (chừng 3h30') là một cuộc bạo động của đám đông hàng nghìn người rầm rập trên đường lần lượt đi phá, đốt nhà cửa, lấy tài sản của các cán bộ chủ chốt trong xã.

Trình tự của cuộc đập phá : Thoạt đầu là Ủy ban xã, ngay sau đó là nhà chị Ly, liền kề Ủy ban (đây là gia đình thường thổi nấu cơm khách, phục vụ ăn uống cho Ủy ban xã). Người ta nói rằng việc đập phá nhà chị Ly là để cho bõ tức vì không tìm thấy ông Chủ tịch Hàm tại đó. Tại nhà này, đám đông đã đốt xe máy phân khối lớn của một cán bộ công an tỉnh biệt phái theo dõi cơ sở. Từ nhà chị Ly, đám đông ầm ầm đi tới xóm 11 dập phá nhà Chủ tịch Hàm. Sau đó, chuyển xuống xóm 6, phá nhà ông Trung, cán bộ quản lý địa chính xã, sang xóm 8, đập phá tài sản nhà ông Lự, Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Thái Bình. Tại đây, đã diễn ra cuộc đụng độ quyết liệt giữa thân nhân của chủ nhà với người đi đập phá, cả hai phía đều có người bị thương, đám đông đã bắt đầu nổi lửa đốt từ nhà này trở đi. Tiếp đó đám đông vượt đồng sang xóm 9, xóm 10 để đập phá và đốt nhà ông Hoa, Phó Chủ tịch phụ trách nội chính xã, quay trở về gần nhà Chủ tịch Hàm để đốt phá nhà ông Ðăng, Chỉ huy trưởng quân sự xã, sau đó tới các xóm khác đốt phá nhà ông Trừ (nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân khóa trước, nay là Trưởng ban Tài chính xã) rồi tới đốt phá nhà ông Hứa, Phó Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Ðiểm đốt phá cuối cùng là nhà Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm, huyện ủy viên huyện Quỳnh Phụ... Tại đây, đám đông giải tán vào lúc khoảng 3h30' sáng ngày 27/6/1997.

Từ những thông tin mà chúng tôi nắm được qua cuộc khảo sát nhanh được trình bày tóm tắt ở trên chúng tôi nghĩ có thể gợi lên một số nguyên nhân để giải thích các sự biến vừa rồi. Ðương nhiên ở đây cũng chỉ là sự suy nghĩ chủ quan của chúng tôi từ cách tiếp cận xã hội học. Ở những cách tiếp cận khác, có thể có sự nhìn nhận khác. Tuy vậy, chúng tôi cứ mạnh dạn nêu lên như sau :


II. SỨC DÂN BỊ KHAI THÁC QUÁ MỨC,
BỊ SỬ DỤNG LÃNG PHÍ VÀ BỊ THAM NHŨNG QUÁ MỨC


Là một tỉnh nông nghiệp, mật độ dân số quá cao và có một thời tỉ lệ phát triển dân số quá lớn. Thái Bình cho đến nay vẫn chỉ trông chờ vào việc trồng lúa. 102.360 ha đất nông nghiệp của Thái Bình đã được thâm canh đến mức tối đa và nhìn chung năng suất cũng đã đạt đến mức tối đa : 10-15 tấn/ha/năm ; tức là khoảng từ 2 cho đến 2,5 tạ/sào/vụ. Bình quân đất canh tác mỗi khẩu dao động từ 1 tới 1,5 sào/người. Ước tính năm 1997 trung bình mỗi người dân Thái Bình xuất khẩu không quá 15 đô la, trong đó một phần không nhỏ trông chờ vào xuất khẩu lúa. Ðược mùa nên giá lúa đã rơi mạnh ; giá lúa trung bình tại các chợ là 1.200 đ/kg thóc và sau vụ Ðông xuân 1997 Thái Bình còn hàng chục vạn tấn chưa có thị trường tiêu thụ.

Nhìn từ góc độ hộ gia đình, tình hình lúa ít sáng sủa hơn. Theo nhiều người đánh giá, nếu cần mua 200 đ thuốc lào cũng phải bán lúa và 5 cân mới mua nổi 1 bao Vinataba (Thời báo Kinh tế, 16/7/1997). Những nguồn thu nhập khác ngoài lúa như chăn nuôi là thấp và ít ỏi. Chúng tôi dẫn ra đây trường hợp một nông dân đã từng tham gia biểu tình ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Gia đình anh ta 5 người với 7,5 sào ruộng có thể có thu nhập tối đa là :

7,5 sào x 4 tạ = 30 tạ = 3 tấn = 3.600.000đ
2 tạ lợn x 10.000đ/kg = 2.000.000đ
Các khoản khác : = 2.000.000đ
Tổng cộng : = 7.600.000đ
Trong lúc đó, các khoản chi phí chủ yếu là :
7,5 sào x 1 tạ = 7,5 tạ = 1.000.000đ
2 tạ lợn X 5.000đ/kg = 1.000.000đ Tổng cộng : = 2.000.000đ
Các khoản đóng góp cho chính quyền:
Vụ đông : 71,1 tạ = 850.000đ
Vụ mùa : 5,7 tạ = 680.000đ
Cộng : = 1.530.000đ
Tổng cộng: = 4.100.000đ Thu nhập bình quân 800.000 đ/người

Có lẽ đây là một trường hợp không mấy cá biệt, mà có thể xem như khá phổ biến đối với Thái Bình.

Với nguồn thu tối đa là 1.000.000 đ/người/năm, người nông dân phải chi cho ăn, mặc, học hành của con cái, chữa bệnh, sửa chữa nhà cửa và vô vàn các khoản khác nữa. Trong lúc đó hệ thống nhu cầu lại được mở rộng, theo kênh truyền thông đại chúng về lối sống đô thị và theo mạng lưới giao thông nối liền nông thôn với đô thị. Ví dụ, nước giải khát chè xanh không còn trong khi xuất hiện "bia Ong" (Thái Bình) cũng như các loại nước có ga khác. Người nông dân trên những thửa ruộng với nhiều mảnh cách xa nhau cũng không thể cày sâu hơn, cuốc bẫm hơn vì họ đã nghiệm ra là càng như thế thì thu nhập của họ càng ít đi. Trong khi đó, đường nhựa và thông tin đại chúng truyền tải liên tục về cho họ những sản phẩm mới và những hình ảnh mới mà họ ít có cơ hội để hưởng dụng chúng. Ðặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục đại học và y tế nhà nước, rất khó để người nông dân có thể hưởng được những thành quả của sự phát triển trong hai hệ thống đó.

Trong lúc đó, người nông dân cũng tận mắt thấy sự đồng đều truyền thống mà họ yêu mến không còn nữa. Nhóm cán bộ xã đã giàu lên nhanh chóng và bắt đầu có một lối sống khác: "chiều chiều họ cưỡi xe dim [xe honda Dream], đeo vạt [cà vạt], mặt đỏ như ông tiên sư, ra cánh đồng đứng chỉ trỏ" (lời kể của một lão nông, huyện Quỳnh Phụ). Thế rồi vợ con của những cán bộ kiểu này bắt đầu có những đua đòi, kệch cỡm trong lối sống mà bà con lối xóm cho là "hợm của". Và không thể nào lý giải được nguồn gốc của số của cải đó. Trong các khiếu nại, nhiều người nông dân chỉ yêu cầu các cán bộ lãnh đạo xã dạy cho họ biết cách làm thế nào để cũng có thể giàu lên nhanh chóng như cán bộ.

Thành tựu về tăng trưởng kinh tế ở Thái Bình là rõ ràng : người nông dân từ chỗ đói ăn, nhà tranh vách đất nay đã chuyển sang đủ ăn, nhà kiên cố. Tuy nhiên, do hệ thống nhu cầu được mở ra nên từng người cụ thể không cảm nhận được sự tăng trưởng đó. Có chăng là với người già, khi họ ngồi nhớ lại rằng ngày xưa đời sống khổ cực hơn.

Một thành tựu cơ bản của Thái Bình cho đến tận hôm nay là đẩy nhanh các chương trình xã hội. Trong năm năm qua những công trình "Ðiện, đường, trường, trạm" đã là những thành tựu nổi bật nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển xã hội. Tuy nhiên, nếu phát triển các chương trình đó trong bối cảnh của nền kinh tế không phát triển đạt đến mức tương ứng thì sẽ đem lại một sự thụt lùi cả trên bình diện kinh tế lẫn xã hội. Ðiều này thì nhiều lãnh đạo nào cũng có thể hiểu.

Thế nhưng, dường như lãnh đạo Thái Bình muốn thông qua những chương trình xã hội để phần nào đảm bảo lại sự phân phối lại công bằng hơn cho người dân. Có lẽ chưa có tỉnh nào phát triển hệ thống giao thông nông thôn tốt được như Thái Bình : đường liên xã đều được rải nhựa. Hơn thế, Thái Bình còn phát triển cả bốn công trình điện, đường, trường, trạm cùng một lúc. Quả thực điều này đã tạo cho nông thôn Thái Bình một diện mạo rất tươi sáng. Nhìn từ ngoài vào, ấn tượng thật nổi bật. Song nếu đi sâu phân tích sẽ bật ra nhiều vấn đề.

Ðiểm đầu tiên cần hiểu : từ nguồn vốn nào để thực thi các công trình lớn đó ? Không thể từ đâu khác, kể cả nguồn vốn cho việc xây dựng trụ sở, hội trường, nhà tưởng niệm, v.v. đều chủ yếu lấy từ sự đóng góp của nông dân. Cùng với nó là từ các nguồn có thể xoay xở được như bán đất cho những người có tiền làm nhà. Ðặc biệt là khoản tiền vay của ngân hàng với hy vọng sẽ trả dần về sau này. Ước tính số tiền nợ vay ngân hàng theo những người được hỏi có thể chiếm 10 % tổng số tiền sử dụng để triển khai các chương trình trên. Gánh nặng trả nợ về sau thì rồi cũng đè trên vai người dân chứ còn ở đâu khác. Mà những khoản đóng góp thì rất đa dạng.

Ví dụ : tại xã Tây Phong huyện Tiền Hải, người ta nói với chúng tôi rằng : mỗi con trâu 1 vụ phải đóng 40 kg thóc về tiền giao thông, tức là mỗi chân trâu 10 kg thóc cho 1 vụ ; mỗi đàn vịt từ 30 con trở lên phải đóng thuế trồng cỏ. Còn nhiều khoản đóng góp khác nữa, ví như một cuộc họp phổ biến kiến thức nói về nông nghiệp cũng đòi mỗi gia đình phải đóng góp 7 kg thóc, v.v.

Những xã càng là tiên tiến, lá cờ đầu, thì sự đóng góp của dân càng nặng hơn. Cũng người nông dân tại xã Tây Phong, Tiền Hải, Thái Bình, người đã tham gia cuộc biểu tình bày tỏ ý kiến trên huyện đã nói ở trên, anh ta cho biết : "Theo quy định vụ Ðông xuân 97 gia đình anh phải đóng 7,1 tạ thóc cho hộ 5 người. Nhờ quyết định 279 (**) nên vụ Ðông xuân này hộ chỉ còn phải đóng góp 2,2 tạ thóc mà thôi. Và các gia đình trong xã bắt đầu tổ chức ăn mừng việc "giảm sản". Ở xã là nơi mà sự đóng góp đó đè lên vai người nông dân với tất cả sức nặng của nó, hầu như tất cả các xã của Thái Bình đều nằm trong tình trạng mang công mắc nợ ngân hàng. Xã nợ chừng 1-2 tỷ là chuyện thường. Tại xã Quyết Tiến huyện Kiến Xương, một xã có khoảng hơn 3 000 dân, mức nợ nằm ở khoảng trung bình cũng là chừng 400 triệu. Theo lời bình của một cán bộ xã : "Nếu xã nợ chừng 100 triệu trở lại thì còn có thể xoay xở được chứ quá 100 triệu thì sẽ rất nan giải".

Cần nhớ rằng, nội dung đích thực của các chương trình xã hội không phải nằm ở phần cứng của nó, mà là nội dung bên trong cái khung hào nhoáng đó. Chẳng hạn, với trường học thì phần cơ bản phải là đời sống và giáo viên để cho họ thực sự là giáo viên chứ không phải là người nông dân có nghề phụ là dạy học ! Với trạm xá thì tay nghề của các cán bộ y tế cùng những trang thiết bị tối thiểu cho họ hành nghề mới là cái chức năng đích thực. Nếu thế thì một câu hỏi được đặt ra : Liệu có cần phải xây nhiều trạm xá đến như thế không trong khi đã có một hệ thống giao thông tốt và thuận lợi đến như vậy ? Cũng có nghĩa là cho đến hôm nay, thực chất các chương trình phát triển xã hội cũng mới chỉ hoàn tất bước đầu ở phần dễ thấy nhất và tương đối ít tốn hơn. Ấy thế mà cũng đã kiệt sức. Câu hỏi đặt ra sẽ là, phát triển các chương trình xã hội có kịp mang lại động lực mới cho phát triển kinh tế nông thôn Thái Bình hay không, hay đang là gánh nặng quá sức đối với người dân khi mà bình quân thu nhập của họ chỉ trên dưới xấp xỉ 1 triệu đồng cho 1 người trong 1 năm ? Hậu quả của sự đóng góp quá sức đó là gì, chúng ta đã tìm thấy trong các sự biến vừa rồi. Nói cách khác, theo chúng tôi, đó chính là một trong những nguyên nhân đẩy tới sự biến Thái Bình.


III. CÁN BỘ VÀ CƠ CHẾ


1. Về người cán bộ


Ðiều mà mọi người thường giải thích, do cán bộ xã tham nhũng quá đáng, ức hiếp dân để dân không chịu nổi nên tức nước thì vỡ bờ thôi. Trăm sự là đều do cán bộ xã hư hỏng mà ra. Nói vậy cũng có chỗ đúng song cách nhìn nhận ấy không thỏa đáng, và nói cho cùng, cũng chưa đi vào nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng ở Thái Bình, một điển hình nổi bật nhiều năm của sự nghiệp phát triển nông thôn. Rốt cuộc lại thì những người cán bộ là ai, phải chăng họ chính là những thành viên cấp cuối cùng thực thi mọi đường lối chính sách của Ðảng và Nhà nước ? Mà thật ra, với người nông dân ở xã thì Ðảng và Nhà nước cũng là một, nó là hiện diện cho những người có quyền lực đang trực tiếp tổ chức và chi phối đời sống của họ. Ở một khía cạnh nào đó, người cán bộ xã phải gánh trên vai toàn bộ gánh nặng của hệ thống quản lý về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng... Chính họ là người chuyển tải mọi chủ trương đường lối của Ðảng và Nhà nước đến trực tiếp với người dân, nói đúng hơn, đến 80 % dân số của cả nước. Không có họ khó hình dung được sự hoạt động của hệ thống quản lý. Cho nên, không thể chỉ có sự phê xét về họ, mà quan trọng hơn, là sự thẩm định lại cái cơ chế đang điều hành họ, đúng hơn, cái cơ chế mà họ được đặt vào, và rồi, bản thân họ góp phần làm cho cái cơ chế ấy vận hành và cũng bị sự vận hành của cơ chế ấy chi phối.

Ðương nhiên, họ phải chịu trách nhiệm với những hoạt động của họ, hành vi của họ, phẩm chất của họ. Không ai có thể biện hộ cho hành vi tham nhũng và ức hiếp dân của những cán bộ xã hư hỏng. Họ phải bị xử lý, người khác sẽ được thay thế vào, và guồng máy tiếp tục được vận hành theo cái cơ chế đã từng chi phối những cán bộ vừa bị xử lý (sa thải hoặc kỷ luật, ví dụ thế). Thế rồi sao nữa ?

Một bộ máy quản lý ở cấp xã cũng đủ lệ bộ như đã quy định từ Trung ương, chỉ có điều, tiền phụ cấp công tác hoặc lương mà họ được hưởng không tương xứng với công việc mà họ phải gánh vác. Ví dụ như, với 280.000đ, một chủ tịch xã chỉ có thể chi phí cho việc đi họp ở huyện, ở tỉnh, giao tiếp, khách khứa (xăng xe, thuốc lá, thuốc lào, giải khát dọc đường, sửa xe, v.v.). Nhưng họ cũng phải sống chứ, phải nuôi vợ con, rồi nhà cửa, giỗ chạp, cưới xin, chữa bệnh, học hành cho con cái, v.v. Tiền lấy đâu ra ? Ấy vậy mà, xem ra, không mấy cán bộ có chức, có quyền ở xã lại chịu sống trong cảnh bần hàn nhưng liêm khiết cả. Nói chung thì, ở những xã vừa bùng lên những vụ khiếu kiện, những vụ biểu tình, những sự đập phá, v.v. các cán bộ xã đều có mức sống tương đối cao so với mặt bằng mức sống chung của dân trong xã (trừ những cá biệt).

Trong cuộc phỏng vấn một ông giáo về hưu tại thị trấn Kiến Xương, người đang đi khắp nơi nộp đơn đòi thành lập Hội Chống tham nhũng, thì ông ta chia tham nhũng ra làm ba loại, trong đó loại 2, loại 3 thì chỉ cảnh cáo. Chính ông cũng thừa nhận rằng, các cán bộ xã đã làm việc rất nhiều nhưng phần tặng thưởng cho họ về công lao hoạt động là quá ít ỏi. Cũng có nghĩa là ông mặc nhiên thừa nhận những cái mà những người cán bộ có được cũng một phần là công sức lao động của họ, công sức ấy chưa được Nhà nước bồi hoàn thích đáng, và vì vậy tham nhũng là điều dễ hiểu và khá phổ biến. "Nếu cách chức cả thì lấy ai làm việc", ông ta kết luận !

Cũng có thể thấy rằng, công quỹ được hình thành nên, để trong đó có thu nhập của cán bộ xã, có thể có được từ 3 nguồn (ở những xã không có dịch vụ phát triển) :

- Tiền phần trăm do các bên nhận thầu "lại quả" khi thực thi các công trình phúc lợi công cộng. Khoản tiền này rất lớn và khó xác định. - Tiền bán đất cho nông dân xây nhà. - Những khoản thu phí trong các hoạt động sản xuất của nông dân.

Những khoản tiền này được chi để trang trải mọi hoạt động của một bộ máy hành chính rất cồng kềnh, song không được trả đủ lương để tồn tại. Ðấy là chưa nói để chứng minh sự tồn tại của mình là hợp lý, bộ máy này luôn luôn xáo động bằng sự thay đổi nhân sự, bằng sự thăm viếng thường xuyên để chứng tỏ tính chất tập trung tuyệt đối của họ. Phần còn lại sau khi chi phí cho sự hoạt động của bộ máy cồng kềnh đó sẽ thuộc về những người quản lý cấp cơ sở.

Như vậy có nghĩa là khoản thu nhập thêm của cán bộ xã có tính hai mặt. Một mặt, nó là sự trả công cho lao động cường độ rất cao của họ. Mặt khác, nó là sự tước đoạt của cộng đồng. Và do tính chất tuyệt đối của quyền lực hiện hữu, hoàn toàn không có khả năng kiểm soát được về sự tước đoạt này, gắn với sự bất hợp lý của nền hành chính. Sự lạm dụng công quỹ được hình thành nên do những đóng góp nói trên là điều tất yếu, không thể khác được. Và, sự lạm dụng đó rất lớn, chẳng hạn như, người ta nói và chắc là không ngoa, sau hai năm công tác, một trưởng thôn có thể kiếm được 17 tấn thóc. Nói cách khác, cùng với việc sử dụng công quỹ để nuôi một bộ máy quản lý quá cồng kềnh ở cấp xã, để tạo ra sự khang trang cho cả cộng đồng, người cán bộ xã cũng tìm cách làm giàu cho gia đình họ.

Vấn đề đặt ra không chỉ là phẩm chất của người cán bộ xã mà chủ yếu là cơ chế nào đã cho phép họ cái quyền được tạo ra công quỹ đó và được phép sử dụng công quỹ đó. Sự phẫn nộ của nông dân không phải chỉ là những khoản họ phải đóng góp, và còn là, và chủ yếu là việc chi dùng sự đóng góp đó, trong đó có sự tham nhũng như đã phân tích ở phần II.

2. Sự đối đầu giữa cán bộ quản lý và dân


Sự đối đầu giữa cán bộ cấp cơ sở và nông dân là một thực tế rõ nét. Mà những sự biến ở Thái Bình vừa qua đã được phơi bày, cần phải được mạnh dạn chỉ ra. Cần chú ý đến một câu ngạn ngữ phương Tây : "Quyền lực có xu hướng tham nhũng, và quyền lực là tuyệt đối thì tham nhũng là tuyệt đối". Ở cơ sở cộng đồng xã hội nông thôn hiện nay, sự tập trung quyền lực tuyệt đối, trên thực tế là ở trong tay một số người, mặc dù trên danh nghĩa thì là tập thể lãnh đạo của tổ chức Ðảng và Chính quyền.
Trong cuộc phỏng vấn tại nhiều xã trong đợt khảo sát vừa qua của chúng tôi, nhiều bà con nông dân đã thể hiện rõ sự phẫn nộ và quyết liệt với một số cán bộ xã và ngược lại các cán bộ xã cũng có một thái độ như thế đối với những người nông dân biểu tình. Sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nhóm người này là quá rõ, họ rành nhau quá, biết kỹ về nhau quá. Sau những năm dài cùng tồn tại dựa vào nhau, có lẽ chỉ có họ mới hiểu chính xác thế nào là mối quan hệ giữa người quản lý (nhà nước) và người bị quản lý (nhân dân). Và tuyệt đối họ không có ảo tưởng về nhau. Những ảo tưởng về đối tượng quản lý, nếu có, chỉ bắt đầu xuất hiện tại cấp huyện và những cấp cao hơn chứ không thể nào có được tại cấp xã. Cán bộ cấp xã là những người có tư duy rất cụ thể (và có lẽ đó là nơi đào tạo tốt nhất về quản ý nhà nước hiện nay hơn bất cứ học viện nào).

Bi kịch nông thôn là ở chỗ cả hai nhóm người đang đối diện với nhau đều cùng hướng vào những mục tiêu mà xã hội theo đuổi và cơ chế mà xã hội vận hành để theo đuổi các mục tiêu đó. Chính họ cùng chia sẻ những mục tiêu đó mà không ý thức được về cái giá phải trả để đạt được tới đích. Sự căng thẳng vẫn tồn tại từ rất lâu, nhưng một thời gian có phần mờ đi vì chiến tranh, về sự hy vọng về một xã hội tốt đẹp, trong đó mọi người đều bình đẳng như nhau, sướng khổ như nhau. Khi bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới sau hòa bình, những hậu quả của chiến tranh càng được làm trầm trọng thêm trong sự vận hành cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp đẩy tới sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài, đời sống nông thôn lại càng khó khăn gấp bội. Những bước khởi sắc với Nghị quyết 10 và công cuộc Ðổi mới làm cho đời sống nông thôn có chuyển biến mạnh. Tuy nhiên, sau thời gian khởi động, những động lực được tạo ra không còn giữ được sức đẩy như trước nữa, động lực mới thì chưa tạo ra được. Cơ chế vận hành của hệ thống quản lý và bộ máy hành chính càng ngày càng bộc lộ sự bất cập của chúng. Sự bất cập càng kéo dài thì đụng độ giữa người quản lý và đối tượng họ quản lý càng tăng.

Những dồn nén không được giải tỏa (những khiếu kiện hợp lý và trong khuôn khổ hiền hòa, chỉ nhận được những thái độ lẩn tránh quanh co hoặc im lặng kéo dài của các cấp từ xã lên đến huyện, đến tỉnh thậm chí đôi lúc cả trung ương) đến một lúc không kềm chế được đã bục ra. Và khi nó đã bục ra thì có một thực tế phũ phàng là: bộ máy quản lý cấp xã nhiều nơi bị vô hiệu hóa hoặc tan rã. Ðiều mỉa mai nhất, chúng thể hiện rõ sự bục vỡ đó ở ngay những nơi đã được đánh giá là chính quyền vững mạnh, đảng bộ bốn tốt ví như ở xã An Ninh, Quỳnh Phụ, xã Thái Thịnh, Thái Thường của Thái Thụy và xã Tây Phong của Tiền Hải.

Ở những nơi này, sự đối đầu giữa người dân và bộ máy quản lý đã đến cao độ. Và sự đối đầu này hoàn toàn không có cái gì để làm mềm đi cả. Mặc dầu ở những nơi này người ta vẫn học thuộc lòng khẩu hiệu : "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Thế là diễn ra tình huống nhà nước cấp xã quản lý theo những mục tiêu mà nhà nước cấp trên đề ra. Nhân dân thể hiện sự làm chủ của mình bằng cách nổi lên phản kháng. Tuy nhiên, trong cuộc xung đột đó, theo nhận xét của nhiều người, hoàn toàn không thấy bóng dáng của đảng viên nào đứng ra can ngăn những cơn phẫn nộ của quần chúng, bảo vệ những thành quả đã đạt được cũng như bảo vệ nhân tính của người. Trong các sự biến, nhìn rõ sự đối đầu giữa nhà nước, những người quản lý, và nông dân, những người bị quản lý. Tuy vậy, không thấy có ai ca thán gì về Ðảng, tất cả mọi người vẫn nói rằng : đường lối của Ðảng là đúng đắn ! Gần như mọi người đều nhận định rằng : dân chỉ chống những cán bộ tham nhũng, hư hỏng, không chống lại chế độ.

Ðây là một vấn đề của chính trị học, có lẽ chúng ta cần có sự nghiên cứu thỏa đáng để rút ra bài học về mặt thể chế và về vai trò của Ðảng cầm quyền được hiện diện bằng xương bằng thịt ở tổ chức Ðảng cơ sở và ở người Ðảng viên sống trong lòng quần chúng. Không thể không thấy rằng, sự hiện diện bằng xương, bằng thịt của Ðảng cầm quyền là Nhà nước, là chính quyền ở cơ sở cũng như ở các cấp. Ở một khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa cán bộ cơ sở với dân, cần phân tích đó là sự mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một số cán bộ xã còn phản ánh ở một chiều cạnh khác của sự bất bình đẳng xã hội mà chính họ là đại diện.

Ðó là sự cố tình phô bày một lối sống trái ngược hẳn với đạo lý của đời sống cộng đồng vốn rất đặc trưng cho nông thôn Thái Bình. Người dân Thái Bình chỉ chuyên nghề nông, ít va chạm với thương trường, vì xa các trục giao thông quốc gia và quốc tế nên rất dễ phản ứng với những gì xa lạ, nhất là những thay đổi từ trong đời sống cộng đồng của chính họ. Họ nhìn những người cán bộ xã đang giàu lên nhanh không phải bằng mồ hôi nước mắt của chính họ bằng con mắt nghi ngờ bao nhiêu, thì càng tỏ ra căm uất bấy nhiêu khi chứng kiến sự xa hoa đua đòi và kênh kiệu của những người này.

Người dân thể hiện sự căm tức ấy qua cách mô tả những ngôi nhà cao to có trang bị đắt tiền kiểu thành phố, những chiếc xe máy đời mới nhất, đến cách ăn diện của các bà vợ các cán bộ xã đi liền với những câu nói hợm hĩnh, rồi đồ trang sức ở những đứa con cán bộ, v.v. (Một ví dụ : vợ của một cán bộ xã đứng giữa chợ gọi điện thoại di động về cho chồng con xem muốn ăn gì đổi món để mua khiến cho bà con nhìn họ với đôi mắt phẫn nộ và dè bỉu). Rõ ràng là cùng với sự phẫn nộ trước những bất công và tham nhũng về kinh tế trước sự lộng quyền mất dân chủ về chính trị và xã hội, mô hình văn hóa của làng quê cổ truyền đụng độ gay gắt với những khác lạ của lối sống của những người mới phất lên do khai thác được cơ may, quyền lực mà họ đang có. Chiều cạnh của văn hóa này của các sự biến cần phải nhìn cho ra để giải thích thêm về nguyên nhân cho những màn kịch đốt nhà và đập phá của cải đầy bạo lực mà người không theo dõi sự kiện này từ đầu khó cảm nhận được để nhìn nhận và phân tích sự kiện bạo động vừa xảy ra.

Quả thật, cán bộ xã, người đại diện cho hệ thống quản lý nhà nước ở cấp xã cùng với cơ chế quản lý đang vận hành đã bộc lộ những yếu kém và bất cập để dẫn đến những vụ đụng độ gay gắt, chuyển thành những bùng nổ xã hội khiến chúng ta buộc phải nhìn nhận trở lại một cách nghiêm khắc về vấn đề quản lý nhà nước. Cũng cần phải lưu ý rằng những sự kiện Thái Bình lại nổ ra vào lúc chúng ta vừa có nghị quyết Trung ương 3 về nhà nước và cán bộ !

3. Những giải pháp bất cập từ nhiều phía


Nếu diễn biến của tình hình đã vượt quá tầm kiểm soát của những người tổ chức và tham gia vào cuộc đấu tranh, thì đối với chính quyền các cấp trên, đây cũng là một sự kiện hết sức bất ngờ. Cách nhận định địch - ta trong tư duy chính trị trước đây đã có ảnh hưởng không nhỏ tới các giải pháp tình thế. Nghi vấn về sự xúi giục hay âm mưu phá hoại của địch đã loại trừ khả năng xử lý kịp thời những vụ tham nhũng và vi phạm dân chủ trong nông thôn của một số cán bộ xã và có thể dập tắt ngay từ đầu cái mầm của sự rối loạn không đáng có này. Nó cũng làm chậm lại việc củng cố Ðảng và các tổ chức quần chúng trong nông thôn. "Không cắt bỏ ngay cái bọc ung thư, để cho nó di căn rồi mới lo cứu chữa thì quá chậm", đó là một nhận xét chí lý của một cán bộ có trọng trách ở cấp tỉnh nay đã về hưu, đã nói với chúng tôi !

Các quyết định của tỉnh cho dù là đúng, song vì không sát với thời điểm của nó nên có khi còn gây căng thẳng thêm cho tình hình. Chỉ thị "279" yêu cầu chính quyền địa phương chỉ được thu 7 khoản như quy định của tỉnh, được công bố vào cuối tháng 6.97 đã làm bế tắc thêm cho các giải pháp nếu đâu đó cán bộ cố tìm cách tháo gỡ sự đụng độ. Các công trình đã được ký kết và khởi công. Các khoản tiền đã được vay để tạm ứng trước, nay không còn khả năng thanh toán vì đã mất các nguồn thu. Tỉnh đã phải ban bố tiếp một quyết định khác yêu cầu đình chỉ mọi khoản thu và hứa cung cấp kinh phí để giải quyết những bế tắc hiện tại. Những yêu sách của quần chúng là bức xúc và phần lớn những chính quyền cấp xã không sao thỏa mãn, vì nếu thỏa mãn chúng thì phải phủ định chính mình: quyền lực, lợi ích, uy thế. Tình hình dẫn tới chỗ bế tắc. Hệ thống quyền lực ở xã lung lay và không còn chỗ dựa trong dân. Vai trò lãnh đạo bị mờ nhạt, vô hiệu hóa.

Tình trạng thiếu lãnh đạo trong nông thôn lập tức được biến thành cơ hội cho các lực lượng xã hội khác xuất hiện chi phối đời sống xã hội nông thôn. Cái cơ cấu làng họ lâu nay tưởng như chìm sâu trong ký ức giờ đây lại sống lại và trở thành chỗ dựa mạnh mẽ cho đời sống thôn xã. Hình ảnh những cán bộ xã Mỹ Lộc (Thái Thụy) phải co cụm trên nóc nhà mình với sự bảo vệ của những người trong gia tộc và thôn xóm phải chăng là điều cảnh báo cho sự bất lực của bộ máy quản lý mà lâu nay chúng ta cứ ngỡ như là vững chãi và sự phục hồi sức mạnh hệ thống thân tộc, làng họ cổ truyền. Sự khôi phục những sinh hoạt gia tộc và làng xã truyền thống trong những năm gần đây có mối liên hệ gì không với những sự biến này ?

Năm 1993, các đảng viên thuộc hai chi bộ ở xã Thụy Hải (Thái Thụy) đã tổ chức dân hai thôn cầm vũ khí đánh nhau vì tranh chấp đất. Người ta cũng rất tích cực trong việc đòi tách hợp tác xã và đòi chia lại ruộng đất giữa các thôn. Những câu chuyện về "chi bộ họ ta", về sự kế nghiệp các bí thư và chủ tịch đã nghỉ quản lý bằng con, cháu của họ vốn không chỉ xảy ra gần đây mà nó đã tiềm tàng từ lâu trong cộng đồng làng xã khi đi vào hợp tác hóa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc khôi phục các quan hệ và sinh hoạt văn hóa truyền thống ấy chính là cái giá đỡ có hiệu quả cho quá trình chính trị hóa đời sống nông thôn hiện nay. Nó có thể có ích cho công cuộc đổi mới hiện nay, nếu nó được hướng theo những mục tiêu chung của đất nước và thời đại. Trong tình thế ngược lại nó sẽ là lực cản to lớn cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân và sự đi lên của đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cần lưu ý rằng : "Làng là tế bào của xã hội Việt Nam. Xã hội Việt Nam là sản phẩm của tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người dân Việt trồng trọt. Hiểu được làng Việt là có trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên hiểu xã hội Việt nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung trong sự năng động lịch sử của nó, trong ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các biểu hiện văn hóa của nó, cả trong những phản ứng của nó trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó" (***).

Chúng ta đang chứng kiến "những phản ứng của làng xã" trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó.

Mô hình văn hóa "làng họ" ăn sâu vào tâm thức và thế ứng xử của người nông dân, đặc biệt là nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Trong các thiết chế của làng xã cổ truyền, làng - họ là mối liên hệ đặc trưng. Hệ thống thân tộc, các phe giáp, mối quan hệ người cùng làng đã phần nào tạo ra đời sống ổn định, trung hòa bởi những đối kháng trong xã hội. Cái cơ cấu làng - họ với những thiết chế cổ truyền ấy tưởng đã bị xóa bỏ để thay vào đó thiết chế quyền lực mới : Đảng và Chính quyền ở xã. Trong thực tế, ảnh hưởng của thiết chế bền vững xưa kia không tan biến mà chỉ chìm sâu xuống mà thôi. Một khi uy lực và tín nhiệm của bộ máy quyền lực hiện thời bị lung lay thì sức mạnh của thiết chế cũ lại trỗi dậy. Không thấy điều này, sẽ không tìm ra được những giải pháp mang tính bền vững trong việc xây dựng nông thôn mới, lại là nông thôn đang hướng tới sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Thổi bùng lên ngọn lửa từ lâu âm ỉ là thiếu sót của một bộ phận khá lớn những cán bộ cấp cơ sở và những xử lý không đúng của các cấp trên của họ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc xử lý và kỷ luật một số cán bộ có sai lầm khuyết điểm mà thôi thì chưa đủ. Ðiều ấy là tuyệt đối cần thiết để yên lòng dân, song chưa giải quyết được tận gốc những nguyên nhân tích lũy, sự bùng nổ lại tiếp tục có thể diễn ra. Vì, tiếp theo sau sự sa thải hoặc kỷ luật những cán bộ có sai lầm, những người mới được bổ nhiệm sẽ lại tiếp tục hoạt động trong cái cơ chế vốn là nguyên nhân của sự tham nhũng, lộng quyền, thiếu dân chủ, không đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực thi chúc năng nhà nước tại cơ sở thì con đường dẫn đến sai lầm của lớp cán bộ mới này là không tránh khỏi.


IV. DÂN CHỦ VÀ DÂN TRÍ, SỰ VI PHẠM
QUYỀN DÂN CHỦ TẠI NÔNG THÔN


Nếu khởi đầu từ cấp cơ sở đi lên, thì thật sẽ hết sức ngạc nhiên tại sao người nông dân lại có thể chịu đựng lâu đến như thế sự mất dân chủ. Trước hết là vấn đề ruộng đất. Nếu việc trả lại ruộng đất cho người nông dân tự quản là nền tảng lớn nhất và sơ khởi cho bất cứ loại hình dân chủ nào thì hiện thực ở Thái Bình là, người nông dân thường không biết được thật chính xác số đất họ có và với số đất đó họ phải nộp những khoản gì, bao nhiêu và trên văn bản nào. Tất cả đã được tính sẵn trong một quyển sổ bởi ai đó và hộ gia đình ở nhiều nơi không được giữ quyển sổ đó, mà là do trưởng xóm giữ.

Chẳng thế mà sau những sự biến, ở nhiều nơi cán bộ xã (có thể dưới sự chỉ đạo của cấp trên) đã lẳng lặng đến tuyên bố hoặc gạch bỏ những khoản mục mà dân phải đóng góp và đã được ghi vào sổ. Bà con kháo nhau, nếu cứ đà này thì vài năm là chúng ta có thể giàu ! Bằng những chuyện thật mà cứ tưởng như đùa này, quyền làm chủ đất đai, ước mơ nghìn đời của người nông dân trên thực tế đã bị vi phạm nghiêm trọng và khiến cho mọi sự bàn cãi về thành tích dân chủ của một nông thôn mới quả là một điều xa xỉ. "Nhà nước bảo thuế ruộng loại A nộp 19 kg/sào, xã thu hơn 30 kg/sào, dân cứ phải đóng. Một gia đình có 3 mẹ con, một đứa con đang đi học lớp 7, một đứa học lớp 4. Bà mẹ không may ngã gãy chân. Thế là tiền thuốc men ngốn hết số thóc trong nhà, chưa thể đóng thuế được, chỉ còn 20kg thóc trong nhà, xã cũng vào vét sạch thì còn dân với chủ gì nữa". Ðấy là lời của một cán bộ lão thành ở Thái Bình nói với chúng tôi.

Tiếp đó, những dấu hiệu thông thường của nền dân chủ, dù chỉ là hình thức, càng khó có thể nói là được tôn trọng. Một việc đơn giản nhất là bầu trưởng xóm, một chức vụ được quy định bởi nhà nước và quy trình bầu cũng được quy định bởi nhà nước, một nhân vật sống sát nhân dân nhất, thì ngay việc bầu cử này người dân cũng không thật có quyền. Hay đúng hơn là, người dân có quyền bầu ra một ông trưởng xóm làm đúng những gì cấp trên quy định. Nếu không ông trưởng xóm đó sẽ được bãi miễn, để thay bằng một ông trưởng xóm khác dễ bảo hơn (xã Tây Phong, Tiền Hải).

Do vậy, khó có thể nói nền dân chủ mà chúng ta triển khai có gì khá hơn nền dân chủ làng xã vốn đã tồn tại nghìn đời ở nông thôn Việt Nam mà ngay cả chính quyền đô hộ thực dân Pháp trước năm 1945 cũng ngần ngại không dám xóa bỏ. Ở một chiều cạnh khác của việc thực thi dân chủ là ở tinh thần luật pháp. Ở đây cũng lại thể hiện một sự bất cập. Một số cán bộ tin chắc rằng quyết nghị của Hội đồng nhân dân xã có thể là cơ sở pháp lý tuyệt đối cho mọi hành vi của họ. Vì thế, chỉ cần thao túng Hội đồng nhân dân là họ có ngay được những văn bản pháp lý cho những quyết định mất dân chủ của họ. Còn ở phía một bộ phận nhân dân thì dường như chế độ dân chủ bằng pháp luật chỉ có tính hình thức. Họ chỉ tin vào một chế độ dân chủ trực tiếp, nơi mà họ có thể trực tiếp phát biểu ý kiến và nguyện vọng của họ. Họ đã làm nên một sự kiện gần như cuộc "đảo chính" khi họ giằng micro từ tay một cán bộ (xã Thái Thịnh, tháng 6/97) để đọc bản đề nghị phế truất vị chủ tịch xã do chính họ bầu ra trước đây và đề cử một người khác. Những cách quan niệm khác nhau và bất cập về dân chủ trong xã hội không thể không dẫn tới những rối loạn chức năng của tổ chức bộ máy nhà nước ở cấp xã, cái cần làm thì không làm, cái không được phép thì cứ làm bừa.

Một đặc trưng khác của nền dân chủ là sự kiểm soát hữu hiệu hoạt động của nền hành pháp. Và không thể nói người nông dân, hay thanh tra nhân dân được bầu ra, lại có thể làm được điều nàỵ Một kiểm soát hữu hiệu phải có thông tin, ấy vậy mà, chưa có cơ chế nào quy định để người dân nắm được thông tin cần thiết. Với cơ chế "Ðảng lãnh đạo" được hiểu một cách thô thiển theo kiểu đảng viên phải nắm tất cả mọi chức vụ, sự kiểm tra cũng bị những người nhân danh Ðảng thao túng. Như vậy thì sự dân chủ đã bị vi phạm trắng trợn.

Sự kiện Thái Bình diễn ra với đủ mọi lời đồn đại lan tràn, nhưng truyền thông của tỉnh trong một thời gian dài đã không hề cung cấp bất kỳ một thông tin nào về việc "vậy thì cái gì đang lan truyền trong toàn thể các xã ở Thái Bình". Còn khi được phép đưa tin thì lại đưa theo một sự lựa chọn phiến diện, không phản ảnh được tình hình, không đáp ứng được đòi hỏi của dân. Ðể nói về cái quyền sơ đẳng của nhân dân nhiều nơi bị xâm phạm thô bạo, xin dẫn ra đây một ví dụ : Một trường hợp đẻ con thứ ba (xã Tây Phong, Tiền Hải) bị phạt theo quy định. Nhằm nhanh chóng thu tiền phạt, xã đã tự mình đặt tên cho con của gia đình bị phạt và dẫn đến trường hợp rất hy hữu trong lịch sử : đứa bé có hai tên, tên chính do chính quyền đặt và tên khác do bố mẹ đặt cho !

Quyền dân chủ bị xâm phạm, điều ấy quá rõ, điều ấy cũng lại gắn với vấn đề dân trí. Có một sự thật phải chấp nhận, khi trình độ dân trí chưa được nâng cao thì việc thực thi dân chủ không tránh khỏi những lệch lạc. Ðiều dễ trông thấy nhất là chủ nghĩa bình quân trong dân chủ làng xã, trong quan niệm dân chủ đó, phần lớn mọi người vẫn chỉ chia sẻ một giá trị là sự chia đều cho tất mọi người những quyền lợi về vật chất và về tinh thần mà xã hội đạt được và người ta có quyền duy trì và thực hiện các quyền đó. Người ta không chấp nhận rằng có những người khác lại có khấm khá hơn họ. Và sự phát triển dân trí trong những năm vừa qua chỉ đủ đưa những người lãnh đạo phong trào nông dân, trong trường hợp tốt nhất là tư tưởng thành lập một Hội Chống tham nhũng. "Bọn tham nhũng như lũ chuột. Hội Chống tham nhũng là con mèo. Chỉ cần có hơi mèo là chuột sợ". Khởi đầu với lý lẽ như thế, rõ ràng là dễ đi vào lòng người, sẽ được những kẻ quá khích cổ vũ cho cái triết lý trong cơ chế hiện nay thì cứ Chí Phèo là được tất. Và đám đông bùng lên. Những người cầm đầu với ý định rất tốt đẹp ban đầu không còn làm chủ được tình hình nữa.

Còn bên kia, các cán bộ chính quyền, nhất là cấp xã, cũng có cùng mặc cảm dân chủ ấy, ngần ngại hành động. Và họ rất hận với chỉ thị 279 giảm đóng góp của dân xuống. Vì theo họ, đấy là chỉ báo cho cái sự dân chủ Chí Phèo phát triển.


V. NHỮNG NHU CẦU KHÁC CHƯA ĐƯỢC ĐÁP ỨNG


Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, đảm bảo dân chủ nâng cao dân trí, xã hội hiện đại cần đến một loạt các thiết chế xã hội để đảm bảo sự hiểu biết lẫn nhau tốt hơn giữa con người trên căn bản tôn trọng cá nhân. Xã hội hiện đại còn là một sự hài hòa giữa lao động và sử dụng hợp lý thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là khi có sự tăng trưởng kinh tế.

Chúng ta đứng trước hiện tượng là Thái Bình là một trong những tỉnh khá nhất của nông thôn Bắc Bộ, kinh tế có lên tuy chưa nhiều so với tiêu chuẩn hiện đại nhưng là rất cao so với những ngày trước năm 1945. Học vấn cũng vậy. Ấy thế mà việc tạo ra những điều kiện để sử dụng thời gian nhàn rỗi là gần như con số không. Thanh niên sau khi được học hành đã không thể tìm được một cách giải trí tích cực nào ngoài việc giải trí thụ động là xem tivi. Trong khi đó tuổi kết hôn lại được nâng cao đến thừa sinh lực. Thanh niên cũng không có chỗ để thực thi trình độ hiểu biết của mình do phải tuân thủ truyền thống "trọng xỉ", dù cho đã có văn hóa, nhưng xem ra vẫn còn "trẻ quá" để thay thế các bậc cha chú do vậy họ cũng chưa có chỗ để sử dụng. Trong các đám đập phá ở nông thôn Thái Bình người ta quan sát thấy chủ yếu là thanh niên, với những mô hình hiệp khách du nhập một cách bập bõm qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng là điều để chúng ta suy nghĩ kỹ hơn về nguyên nhân.

Ðối với các nhóm tuổi khác, đặc biệt là phụ nữ, tình hình còn bi kịch hơn. Ruộng đất còn ít, nghề phụ không có, người ta không biết sử dụng lao động của mình làm gì. Những truyền thống và tập tục văn hóa ngày xưa thì phần lớn đã bị tiêu vùi trong những năm tháng trước đây. Việc phá đình chùa cuối cùng ở Thái Bình là vào những năm đầu thập kỷ 80. Một sự trống trải trên bình diện văn hóa tinh thần, cái dù sao đi chăng nữa cũng đào tạo cho con người ta một nhân cách, dù là nhân cách cam chịu, sự trống trải đó sẽ dẫn tới những hệ lụy mà không phải lúc nào người lãnh đạo cũng cảm nhận được. Và không có cái gì dễ thay thế nó. Văn hóa mới, hướng nhiều về vật chất, lại cao hơn mức mà kinh tế nông thôn Thái Bình cho phép.

Những tổ chức, thể chế xã hội được xây dựng nên trong những năm tháng đã qua. Ðoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Phụ lão, v.v. dần dần rơi vào trạng thái phần nào hữu danh vô thực. Những tổ chức này có một thời đã đóng một vai trò rất tích cực nhưng giờ đây hình như không còn sức hấp dẫn người dân nữa. Tất cả những thiết chế xã hội này đều vẫn đang hoạt động, nhưng có vẻ như nó đã không đáp ứng được mục tiêu : tạo một sự đồng cảm xã hội.

Trong khi đó, những loại hình tổ chức khác bắt đầu được lập ra : các hội từ thiện, các tổ chức phi chính phủ, v.v. lại cũng chưa phát huy được tác dụng bao nhiêu. Người ta dường như cũng cảm nhận rằng những loại hình thức tổ chức đó cũng chẳng đáp ứng được gì cho nhu cầu tinh thần và giao tiếp xã hội của người dân vì vẫn là những con người cũ làm những việc đó.

Do vậy, một mặt người dân tiêu chỗ tiền phụ trội ít ỏi có được của họ vào ma chay, cưới xin và những cái hủ tục khác nữa như uống rượu hoặc đánh số đề. Và mặt khác, tâm linh họ lại hướng mạnh về tôn giáo tín ngưỡng. Có thể thấy ở nông thôn tất cả các bà, các chị từ 30 tuổi trở lên đều chăm chỉ tham gia lễ chùa hoặc đi nhà thờ đều đặn.

Nên chỉ riêng quan sát ngôi chùa ở nông thôn thì có thể thấy thiết chế này trong bối cảnh hiện nay là trở nên rất hữu ích cho người dân nông thôn : thỏa mãn phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần, rèn luyện tình người cho con người. Hơn thế, nó còn là nơi cưu mang cho những cuộc đời bất trắc, cái mà ở thời nào cũng có. Ðặc biệt là với một nông thôn mà không có gia đình nào không có người phải nằm xuống trong cuộc chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các sư giữ chùa làng là những người phụ nữ có số phận dở dang, trong số đó có nhiều người trở về sau những năm tháng chiến đấu trong trong hàng ngũ thanh niên xung phong, chống Mỹ cứu nước.

Và nhà thờ Thiên chúa giáo cũng đang hoạt động tích cực như một lực lượng cứu rỗi linh hồn. Họ có đủ đức tin và nguồn tài chính để đi vào trong quần chúng. Ðiều này thật đáng phải suy nghĩ.


KẾT LUẬN


Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Khi cái nhọt đã bục vỡ, nếu biết cách xử lý, nỗi đau sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều và phần cơ thể nhiễm khuẩn sẽ lành mạnh trở lại. Ðiều ấy là dễ hiểu song không dễ chấp nhận, không dễ có một thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật với một sự dũng cảm mổ xẻ, phân tích để tìm ra đúng nguyên nhân. Nếu không tìm ra đúng nguyên nhân của sự kiện, chỉ dừng lại trên bề mặt của hiện tượng, đối phó bị động và tạm thời bằng những giải pháp chắp vá, thì nhất thời có thể tạm yên được sự bùng nổ, nhưng cái đẩy tới sự bùng nổ thì vẫn còn nguyên, thậm chí còn nung nấu them, đây là một logic tất yếu mà mọi sự bưng bít, che đậy hay xuyên tạc sẽ gánh chịu những hệ lụy khó lường.

Hơn nữa, sự kiện Thái Bình không là ngẫu nhiên và duy nhất. Cái đáng ngạc nhiên – nếu có ai đó có sự ngạc nhiên – thì tại sao lại xảy ra đúng ở Thái Bình, lá cờ đầu của sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, cái xót xa là ở những điểm nóng nơi dân đòi hạ bệ hoặc bắt dẫn lên huyện cán bộ Ðảng và Chính quyền xã mà không gặp sự phản kháng nào của Ðảng viên, mà những nơi ấy lại vừa được tuyên dương là đảng bộ vững mạnh! Sự kiện Thái Bình có những nguyên cớ ngẫu nhiên, đặc thù, song vấn đề nông dân trỗi dậy đòi quyền lợi về kinh tế, về chính trị, về xã hội thì không còn là cá biệt và ngẫu nhiên chỉ xảy ra ở Thái Bình. Do đó, giải quyết đúng sự kiện Thái Bình cũng chính là giải quyết đúng vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân hiện nay. Trên cơ sở khảo sát nhanh sự kiện Thái Bình, từ sự tiếp cận xã hội học, chúng tôi hình dung các kịch bản có thể diễn ra như sau:

1. Kịch bản thứ nhất :


Bị động đối phó bằng cách, một mặt giảm bớt các khoản phải đóng góp của dân, mặt khác trấn áp những đối tượng được nhận định là người cầm đầu, người kích động dân, người có hành vi hung đồ phạm pháp. Tiếp đó dần dần xem xét và kỷ luật hoặc loại bỏ một số cán bộ tham nhũng mất lòng dân, xem xét lại một số văn bản, quyết định từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh để có sửa đổi hợp lý, hợp lòng dân, kiện toàn lại bộ máy Đảng và Chính quyền ở cấp xã, loại bỏ những người tham nhũng quá đáng, quá mất phẩm chất, không có khả năng quản lý, bổ sung những cán bộ tốt, có phẩm chất, có năng lực, được dân tin.

Ðộng viên sức dân, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp, cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nông dân.

2. Kịch bản thứ hai :


Trung ương và tỉnh cử người về tại những điểm nóng, họp toàn thể nhân dân, công khai tiếp nhận kiến nghị, trực tiếp trả lời cho dân một số vấn đề có thể trả lời được ngay, ghi nhận những điểm cần tiếp tục xem xét để trả lời dân sau đó. Ở những nơi khác, cũng có thể làm tương tự với đại diện của tỉnh, huyện và một số ngành chức năng. Cách chức những cán bộ Ðảng và Chính quyền đã có bằng chứng là tham nhũng nặng, mất hết uy tín trong dân ; công khai tự phê bình những sai lầm về chủ trương, giải pháp không đúng với đường lối chính sách của Ðảng và nhà nước, làm thiệt hại đến lợi ích của dân. Cùng với việc đó, xử lý trong pháp luật những phần tử manh động và kích động quần chúng gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cán bộ và cho dân, cho tài sản công cộng.

Kiện toàn bộ máy quản lý cấp xã, Đảng và Chính quyền bổ sung những cán bộ có phẩm chất được dân tín nhiệm. Sửa đổi và hoàn thiện cơ chế mới phát huy được sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, từng bước thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

3. Kịch bản thứ ba


Công khai phê bình và tự phê bình về những sai lầm của cán bộ lãnh đạo xã, huyện và tỉnh trong việc ban hành và áp đặt những chủ trương, giải pháp không phù hợp với đường lối Ðổi mới của Ðảng, làm mất lòng dân, gây phẫn nộ trong quần chúng. Xử lý thích đáng những cán bộ Ðảng và Nhà nước ở các cấp xã, huyện, tỉnh mắc sai lầm nghiêm trọng đã được dân chỉ ra, những người chịu trách nhiệm về việc ban hành những văn bản, chỉ thị sai lầm, gây thiệt hại cho dân, làm mất uy tín của Ðảng và Nhà nước. Song song với công việc trên, dựa vào pháp luật để xử lý thích đáng những người lợi dụng phong trào quần chúng nhằm thực hiện những mưu đồ cá nhân, vi phạm luật pháp, làm hại đến lợi ích vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân dân và tài sản công cộng.

Nhanh chóng xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải tạo cơ bản bộ máy hành chính trên căn bản hoạt động theo chức năng, do vậy, phải bổ nhiệm những cán bộ được đào tạo nghiệp vụ hành chính, có phẩm chất đạo đức và được dân tin. Phân định rõ chức năng của cơ quan Ðảng và cơ quan hành chính Nhà nước để có hệ thống kiểm tra, chỉ huy thông suốt đến cấp xã, nơi trực tiếp với công sản hàng ngày của dân.

Trên cơ sở ổn định xã hội mà mấu chốt là sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế và xã hội theo cơ chế thị trường của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được vận dụng sáng tạo trên địa bàn nông thôn. Tạo ra động lực phát triển bằng việc xử lý thỏa đáng mối quan hệ lợi ích của người nông dân và nghĩa vụ xã hội, nghĩa vụ với đất nước trên căn bản của nhận thức đúng về vai trò và lực lượng của người nông dân trong giai đoạn lịch sử mới. Từ đó, có những sửa đổi lớn về mặt chính sách trên hướng Ðổi mới và sáng tạo để thực sự phát huy sức mạnh nội sinh, đưa nông nghiệp, nông thôn, nông dân vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Ba kịch bản nói trên cũng chỉ là những dự báo căn cứ vào những gì đang diễn ra. Ðương nhiên, điều mong muốn của người làm khoa học là muốn được thấy kịch bản thứ hai được chuyển dần sang kịch bản thứ ba.

Nông thôn và nông nghiệp của chúng ta từ sau Nghị quyết 10 vẫn đang phát triển trên căn bản của kinh tế hộ gia đình nông dân. Ðể cho hộ kinh tế gia đình chuyển dần từ hộ sản xuất tự cấp tự túc sang hộ kinh tế sản xuất hàng hóa còn là những phấn đấu gian khổ với rất nhiều điều kiện được tạo ra. Một trong những điều kiện tiên quyết nhất là phải có những thể chế thích hợp với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước bằng các cơ chế chính sách vĩ mô.

Sự biến Thái Bình sẽ là một cái hích mạnh mẽ cho những quyết sách đúng đắn để giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Mà nếu như vậy thì trong cái rủi có cái may.

Một điều tưởng như đã chìm vào trong quá khứ : mọi chính quyền nhà nước qua các biến thiên của lịch sử đều phải đối diện với nông dân, nông thôn, nông nghiệp ở một nước mà hệ văn minh lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa chi phối toàn bộ đời sống. Từ tháng 8 năm 45, chúng ta cứ tưởng là với công nông liên minh là nền tảng, nhà nước ta đã không phải lo sự đụng độ và đối đầu với cái biển nông dân mênh mông và mãnh liệt ấy. Thế mà giờ đây, hóa ra chính nhà nước công nông của ta cũng vẫn đang đứng trước một thách đố mới của câu chuyện cũ. Chỉ có điều, lịch sử phát triển theo đường xoáy trôn ốc. Vì vậy, lịch sử lại càng đòi hỏi bản lĩnh của Ðảng và nhà nước mà sứ mệnh của mình là xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh đi lên chủ nghĩa xã hội phải giải quyết một cách thỏa đáng và vững chắc vấn đề nông dân. Ðặc biệt là, khi chúng ta quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ta, một nước mà 80% cư dân sống ở nông thôn, thì vấn đề công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn càng là vấn đề bức xúc. Không làm sáng tỏ vấn đề này thì chưa thể định hướng được rõ đường lối công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Một lần nữa vấn đề nông dân lại được đặt ra !
Ngày 8 tháng 8 năm 1997

Tương Lai